Thứ Ba, 6 tháng 7, 2010

LÁ SỐ NỔI TIẾNG

VŨ CÔNG BẢO

Phần tóm tắt hay đầu bài đăngPhần còn lại.
Một tỷ phú khác ủa Hong Kong chỉ đứng thứ hai sau Lý Khả Sinh về sự giàu có và thành đạt là ông Vũ Công Bảo – Ông trùm của ngành hàng hải và bất động sản – thường được biết đến với cái tên “Vua dầu siêu hạng”. Dưới đây là các trụ số mệnh của ông :

Điểm đáng chú ý trong các trụ của ông Bảo là ở trật tự sắp xếp các hành của nó. Rõ ràng là các địa chi đã hổ trợ vững chắc cho cho Thiên Can. Dậu-Kim bình hòa với Tân Kim, Hợi-Thủy bình hòa với Qúy-Thủy và Ngọ-Hỏa sinh Mậu-Thổ tức là các địa chi làm chỗ dựa cho Thiên Can. Điều này phản ánh một con người điền đạm với ý chí mạnh mẽ và qủa cảm. Điều này cũng có thể lý giải tại sao ông bảo được biết đến do tính cách bảo thủ và được xem là một nhà đầu tư và tư bản công nghiệp chân thật trong giới kinh doanh. Hơn nữa, hành Thủy dư thừa lại được hổ trợ bởi hành Kim rất vượng, cũng là biểu tượng cho tính cách cực kỳ năng động và sáng tạo.

Trụ ngày của ông Bảo cho thấy ông là một người mạng Kim sinh vào mùa Đông, là mùa thủy vượng, vì Kim và Thủy là bản hành của mùa Thu và Đông.

Chúng ta biết Hỏa và Thổ là hai hành đem lại sự thuận lợi cho ông Bảo, đo đó rất hữu lý khi cho rằng hành Thủy không thích hợp cho công việc làm ăn của ông. Hơn nữa hành Kim vốn phù sinh cho Thủy, cũng rất tai hại. Bằng sự phân tích như vậy, chúng ta phải ngạc nhiên thích thú khi thấy rằng tiến trình thành đạt của Vũ Công Bảo luôn gắn liền với sự họat động của các hành này.

Chúng ta hãy xét kỹ hơn về cấu trúc các trụ của ông Bảo. Vốn được sinh ra mùa Đông, vì cả Can Chi trụ tháng đều Thủy nên hành Thủy là nổi trội nhất trong ba trụ mà ta biết được. Kim sinh Thủy, do đó đối với người mạng Kim, Thủy là biểu tượng của sự năng động và sáng tạo. Mặt khác, vì Kim khắc Mộc nên Mộc biểu trưng cho tài lộc và sự giàu có cho người mạng Kim. Dẫu sao, trong ba trụ mà ta đã biết cũng không có hành Mộc. Tuy nhiên, vì Thủy sinh Mộc nên sự hiện diện của hành Thủy rất vượng, trong bổn mệnh của ông Bảo cũng phản ánh khuynh hướng sản sinh ra Mộc (tiền tài) rất mạnh mẽ. Ảnh hưởng của hành Thủy này cũng có thể lý giải nguyên nhân tại sao ông Bảo lại có thể làm giàu đáng kể từ những hạm thuyền vận tải siêu hạng của mình. Và cũng từ đó tạo nên biệt danh “Ông Vua Biển”. Qủa thật, hành Thủy là hành sản sinh ra tiền bạc của ông ta.

Trái lại, trụ năm của Vũ Công Bảo lại là sự kết hợp giữa hành Hỏa và Thổ. Thổ sinh Kim đồng thời biểu tượng khả năng tiềm tàng nơi ông Bảo, trong khi Hỏa khắc Kim và đại diện cho uy thế và quyền lực. Do đó, sự hiện diện của Hỏa và Thổ trong trụ năm cho thấy ông Bảo không chỉ là một doanh gia tầm cỡ mà còn là một người có danh vọng và địa vị cao. Thực sự thì ông đã có được tình bạn thân thiết với nhiều nhà lãnh đạo ở các quốc gia hay các chính trị gia cũng như giữ cương vị chủ tịch của ngành hàng hải.

Vì trụ ngày đại diện cho bản thân của người có tứ trụ này, còn trụ tháng lại chỉ về cha mẹ. Tương tự , trụ năm phản ánh ảnh hưởng các thế hệ ông bà. Hành Hỏa trong trụ năm cho thấy ông ta có nền tảng gia đình rất tốt, ít nhất cũng là ở thế hệ đời ông của Bảo. Tuy nhiên, sự thành công của Bảo lại không đến từ người cha, vì trụ tháng của người cha thuộc hành Thủy. Qủa thật, người ta kể rằng thuở thiếu thời, ông Bảo đã bắt đầu làm người quản lý trong ngân hàng và lúc đầu người cha đã phản đối, ông chuyển sang kinh doanh hàng hải. Tuy nhiên, Bảo đã mua chiếc tàu đầu tiên của mình, chiếc M.V.Golden Alta, bằng những đồng tiền tiết kiệm được vào năm 1955, một năm thuộc Thổ (Mùi) lúc ông ta đang ở Đại vận Bính Dần thuộc Hỏa. Nói như vậy không có nghĩa là người ta phải bỏ qua sự tôn kính mà Bảo dành cho cha ông. Mối quan hệ này được phản ánh rõ ràng với Hành Thủy trong trụ Tháng (đại diện cho người Cha) được phù sinh bởi Hành Kim là bản Mệnh của Bảo (Nhật Nguyên)

Từ những Đại Vận trước đó, người ta có thể biết rằng Bảo đã hòan tòan chịu tác động tốt đẹp của hành Hỏa và Thổ ở lứa tuổi từ 39 đến 69; trong thời gian này, những hạm thuyền vận tải khổng lồ và nhữing chiếc thuyền siêu nặng đã phát triển cực kỳ nhanh chóng. Tuy nhiên, thiết nghĩ ta không nên đi sâu vào những thành công rực rỡ của ông ta ở những năm 1970 trên lĩnh vực hàng hải cũng như những năm 1980 trên lĩnh vực kinh doanh bất động sản, mà nên phân tích những đặc biệt trong Tứ Trụ của Bảo thì thú vị hơn. Điểm đặc biệt này được phân thành hai vấn đề giải quyết. Thứ nhất là tại sao ông ta lại chọn nghề hàng hải trong khi có sự hiện diện bất lợi của hành Thủy trong số mệnh; kế đến là tại sao Bảo lại chuyển mục tiêu từ ngành hàng hải sang kinh doanh bất động sản vào những năm 1980.

Ở phần đầu của chủ đề này (phần 1), chúng ta đã biết rằng ông Lý Khả Sinh có các trụ xoay quanh hành Thổ và các trụ này đã làm ông ta quyết định khởi đầu vận may từ công việc kinh doanh bất động sản (Thổ). Tương tự như vậy, các trụ của bảo cũng cho thấy hành Kim và Thủy là nổi trội nhất, do đó dẫn đến việc ông ta bị chi phối mạnh bởi hành Thủy để bước vào ngành hàng hải (Kim và Thủy), tuy nhiên khi buớc sang tuổi 59, Bảo lại bước vào đại vận của Hỏa và Thổ (Kỷ Tị). Theo nguyên lý Thổ khắc Thủy do đó ông đã chuyển hướng kinh doanh để đầu tư vào ngành bất động sản. Giả thuyết này rõ ràng cho thấy xu hướng nghề nghiệp của ông ta được ấn định bởi hành nào có ảnh hưởng mạnh nhất hơn là bởi hành nào thích hợp trong tứ trụ bổn mệnh.

Tiếc rằng ông Bảo mất vào năm Tân Mùi (1991) ở tuổi 74. Vào thời điểm này ông ta đang ở Đại vận Canh Ngọ với Thiên can Canh thuộc Kim. Ngày mất của ông cũng là một ngày Kim trong tháng Kim . Hơn nữa ông bảo đã mất vì một căn bệnh có liên quan đến cơ quan hô hấp; cơ quan này cũng thuộc về hành Kim. Các sự kiện này cho ta một bằng chứng khẳng định rằng cho dù một đời người với những thành tựu không thể chối cãi được trong ngành công nghiệp hàng hải (Kim) nhưng Kim vẫn là một hành bất lợi cho ông trùm tư bản này.

Lý Khả Sinh


Phần tóm tắt hay đầu bài đăngPhần còn lại.
Lý khả sinh, một nhà tỷ phú về bất động sản, là chủ tịch của tập đòan Cheung Kwong và tổ hợp Hutchison khổng lồ. Ông ta đứng đầu danh sách những tỷ phú Hong Kong từ những tài sản mà ông nắm giữ. Vốn nổi tiếng là một người tự lập, Lý Khả Sinh sinh ra trong một gia đình nghèo ở Trung Hoa lục địa. Tuy nhiên, những thành công ngọan mục về thương mại trong những năm qua đã làm nhiều người ngạc nhiên và đem lại cho ông ta danh hiệu “siêu nhân của thương trường”. Được xem là người thông minh và chăm chỉ, những phẩm chất này chắc chắn đã góp phần vào việc vươn lên hàng đầu của ông ta. Dù vậy, không phải tất cả những ai thông minh và trì chí đều đạt được thành tựu như họ Lý, và chúng ta không thể phủ nhận rằng sự may mắn cũng là điều rất quan trọng, nếu không muốn nói là điều cần thiết trong cuộc đời của ông ta, trong khi nhiều người xem sự may mắn là một yếu tố bất định và phi lý, vượt qúa tầm kiểm sóat của chúng ta thì thì nghệ thuật dự đóan theo tứ trụ cổ truyền đã thể hiện sự sáng suốt hợp lý về lọai hiện tượng này.

Phần này sẽ chứng minh rõ tại sao sự may mắn của ông Lý Khả Sinh có thể được giải thích bằng ngày giờ sinh của ông, được diễn đạt theo dự đóan tứ trụ. Việc phân tích cũng sẽ bao trùm tầm mức rộng lớn các thông tin, kể cả cách thức mà tứ trụ có thể bộc khuynh hướng có thể phát triển nghề nghiệp; lĩnh vực kinh doanh mà một người có thể xâm nhập; các mặt tích cực và tiêu cực trong mối quan hệ xã hội cũng như những bước thăng trầm trong vận mệnh của mỗi người.

Trước tiên, chúng ta hãy xem xét các trụ trong bản mệnh của Lý. Lý Khả Sinh ra đời vào ngày 13 tháng 6 năm 1928 (Mậu Thìn). Vì không biết chính xác được giờ sinh của ông ta, bảng sau đây sẽ thể hiện ba trụ còn lại :

Khi xem xét các trụ này, nguyên tắc đầu tiên cần phải nhớ là Thiên Can của ngày sinh thuộc hành nào thì hành đó đại diện cho bản thân người này, còn các hành khác của Thiên Can ở Năm, Tháng, Giờ Sinh và lại đại diện cho mối quan hệ của họ với người khác hay với xã hội. Từ định nghĩa này, ta có thể xác định Lý Khả Sinh là người Mệnh Mộc sinh vào mùa Hè, tháng Hỏa (Ngọ)

Ông Lý là một biểu tượng về sự giàu có ở Hồng-Kông và tất nhiên, tiền tài giữ vị trí quan trọng trong vận mệnh của ông. Vì tiền tài là thứ mà con người chiếm hữu, cho nên về mặt âm dương ngũ hành, nó lại bị cái tôi khắc. Trong trường hợp của ông Lý, vì Mộc khắc Thổ, do đó Thổ là hành đại diện cho mặt tiền tài của Lý. Các bạn có thể lập tức nhận ra sự nổi trội của hành Thổ trong các trụ của ông Lý. Vỉ được sinh ra vào mùa Hè, là mùa Hỏa Vượng, Hỏa sinh Thổ nên Thổ vượng.

Một điều thú vị của các trụ số mệnh là chúng có thể đưa ra lời khuyên về lĩnh vực thuận lợi nhất để con người đầu tư sức lực của mình vào đó. Trong trường hợp của trí tuệ và khát vọng của ông ta. Sự vượng tướng của Hỏa và Thổ trong cấu trúc của các trụ cho thấy ông Lý có năng khiếu đặc biệt trong việc tạo ra tiền của từ đất đai. Do đó lĩnh vực hoạt động thuận lợi nhất của ông ta là lĩnh vực liên quan đến đất đai: kinh doanh bất động sản.

Một phương diện đáng ngạc nhiên là tứ trụ có thể mô tả sinh động những cơ may trong cả đời người. Điều này có thể thực hiện bằng cách đưa thêm vào ngày giờ sinh tại các trụ của “Đại vận”. Can Chi của Đại Vận được hình thành từ Can Chi của tháng sinh và quản lý cơ may của con người trong vòng mười năm. Số nhỏ ở trên mỗi đại vận cho biết lứa tuổi mà người này sẽ chịu tac động của đại vận đó.

Theo dõi qúa trình thành đạt của Lý qua các Đại vận, điều cần thiết là phải xác định xem hành nào sẽ đem đến cho ông ta sự may mắn cũng như hành nào sẽ mang lại tai họa và sự sa sút, thụt lùi. Trụ ngày của Lý cho biết ông là người Mệnh Mộc, sinh ra vào thàng Hỏa. Vì Mộc sinh Hỏa nên Hỏa làm suy yếu Mộc, do đó ta có thể thấy rằng Mộc trong bản Mệnh của Lý đã bị suy yếu. Tuy nhiên, triết lý của môn dự đoán theo tứ trụ là sự hài hòa và cân bằng, cho nên sẽ là một bất lợi nếu như có một hành nào đó trong tứ trụ hoặc là qúa suy thì cần phải bổ cứu nó bằng một hành khác sinh ra nó. Tương tự, nếu một hành qúa vượng thì suy lực của nó cần được khắc chế hay làm suy yếu. Vì hành Mộc trong tứ trụ của Lý suy yếu cho nên cần được bổ cứu của hành Thủy vì Thủy sinh Mộc. Kim sinh Thủy cho nên Kim cũng là hành đem lại sự thuận lợi cho Lý. Do vậy, ta có thể khằng định rằng sự may nắn của Lý đã được đem đến từ Kim và Thủy. Nói cách khác, Hỏa và Thổ là hai hành khắc và không giúp ích cho sự thành công. Ghi nhớ điều này và chúng ta hãy xem các trụ Đại vận của Lý có phù hợp với những thành tựu to lớn mà ông ta đã đạt được hay không.

Chỉ có trụ ngày là đại diện cho bản thân ông ta còn trụ tháng là cha mẹ và người thân trong gia đình. Đối với Lý, trụ tháng gồm hành Hỏa và hành Thổ vốn không đem đến sự thuận lợi cho Mộc, vì Lý sinh ra trong một gia đình nghèo ở Trung Hoa lục địa. Cha ông mất sớm khi ông còn nhỏ và người mẹ cũng chỉ có thể nuôi nấng cho đến khi ông học xong lớp hai. Hành Thổ không thuận lợi vẫn tiếp tục chiếm ưu thế khi Lý bắt đầu vào đại vận lúc tám tuổi cho đến mười bảy tuổi (Đại vận Kỷ Mùi). Do đó, ông vẫn bị cột chặt trong nghèo đói khi bước chân đến Hong-Kông lúc mười một tuổi. Tuy nhiên, cơ may đến với Lý rõ rệt khi ông bước vào Đại vận Canh Thân, có Can Chi đại vận đều thuộc Kim. Ở lứa tuổi mười tám này, ông ta bắt đầu bán hàng cho một nhà máy cơ khí nhỏ và nhanh chóng được thăng chức quản lý vào năm 1948 – (năm Mậu Tý Thủy). Hành Kim của đại vận lại tiếp tục sinh Thủy là nguyên thần sinh ra Mộc và vào năm 1950, năm Canh Dần - Mộc, Lý trở thành ông chủ một nhà máy nhỏ, chuyên sản xuất hoa nhựa.

Những thay đổi đầy triển vọng do ảnh hưởng của Kim trong giai đoạn tuổi trẻ cũng được phản ánh bởi hành Kim của Địa Chi ở Trụ ngày. Vị trí Địa Chi của trụ ngày này thường được xem là “cung phu thê” vì nó biểu trưng cho mối quan hệ vợ chồng. Sự hiện diện của Kim, một hành tốt, ở vị trí này cũng cho thấy ông Lý đã nhận được sự hổ trợ hết mình từ người vợ. Qủa thật, người ta nói rằng bà Lý là một phụ nữ có học thức và tận lực; đã giúp đỡ chồng trong những năm đầu hoạt động kinh doanh.

Ở tuổi 38, Lý đã bước vào đại vận thuận lợi nữa (Nhâm Tuất) do sự hỗ trợ của hành Thủy. Trong suốt giai đoạn này, ông đã ra một số quyết định cực kỳ nhạy bén để đầu tư vào bất động sản tại thời điểm mà thị trường Hong Kong đang xuống thấp do sự bất ổn về ngân hàng năm 1954 và dân chúng rối loạn vào năm 1967. Do vậy, tại thời điểm bước vào đại vận Quý Hợi ở tuổi 48 với Can và Chi đại vận đều thuộc Thủy, Ông Lý đã là một tỷ phú về bất động sản, có trong tay Công ty phát triển Cheung Kwong khổng lồ, được đưa vào danh sách ở thị trường chứng khoán năm Nhâm Tý 1972 – năm của hành Thủy. Mà Thủy là một hành thuận lợi với Lý, cho nên đại vận Qúy Hợi từ năm 48 tuổi đến năm 57 tuổi có thể được xem là thời kỳ hoàng kim với những thành công rực rỡ nhất của Lý. Từ sự hổ trợ của những năm thuận lợi của thập niên bảy mươi, ông ta đã làm cho giới bất động sản phải ngạc nhiên qua việc sát nậhp những công ty lớn như Hutchison International vào tập đoàn Cheung Kwong của ông.

Không cần biết qua những thành tựu rực rỡ của Lý từ năm 48 tuổi, chúng tôi muốn nhấn mạnh với các bạn một điều là sự thành công của ông khá phù hợp những gì đã được phản ánh trong các trụ ngày giờ sinh. Là một người sinh ra với khuynh hướng sẽ có một sản nghiệp rất lớn (Thổ) và ông ta đã sử dụng đúng đắn những năng khiếu, khuynh hướng tiềm tàng của mình (Hỏa). Hơn nữa, những đại vận liên tiếp với hành Kim và Thủy vượng tướng đã cung cấp cho Lý những nguồn sinh lực và sức mạnh để vận dụng hành Hỏa và Thổ. tất cả các yếu tố này đã tạo dựng vận mệnh cho một đại thương gia.

Gần đây, những năm 1972, 1993 đều là những năm chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của hành Kim và Thủy (Nhâm Thân, Quý Dậu), cả hai hành này đều hổ trợ cho Lý. Như vậy, rõ ràng là ông ta vẫn ở vị trí hàng đầu trong giới doanh thương Hông Kong trước khi chấm dứt đại vận Giáp Tý ở tuổi 67.

(Theo Bí ẩn Kiến Trúc và Con Người của Phạm Cao Hoàn)

Tìm Hiểu Lệnh Tháng

Phần tóm tắt hay đầu bài đăngPhần còn lại.
Tháng sinh trong năm là một trong những quy ước của Tử bình để tính ra được thân vượng hay nhược. Nó là bước đầu tiên quan trọng khi bạn nhìn vào một tứ trụ. Tiết Khí trong tháng đó chứa những nhân nguyên (can tàng độn) chính mà chúng ta gọi là "Lệnh". Từ Lệnh này mà suy ra được sự vượng, suy của 3 trụ kia, cho nên tháng sinh có yêu cầu cao khi xem xét.

Xin nhắc lại vài từ cho quen cách dùng trong Tử bình:
- Vượng: thịnh vượng, hưng vượng, sáng sủa, tốt đẹp
- Nhược: suy, yếu, tàn
- Tiết Khí: một năm có 24 Tiết Khí, trong đó chia ra 12 Tiết và 12 Khí được tính theo dương lịch (kinh độ mặt trời). Thường thì người ta hay nói chung là tiết khí, nhưng đúng ra thì gọi Tiết Lập Xuân, Khí Vũ Thủy.
- Nhân nguyên: như đã có trình bày, mỗi một Chi đều có đủ 5 hành, nhưng chỉ có các Can tàng có ngũ hành hữu dụng trong Chi đó mới được nêu ra. Có khi bạn chỉ thấy Can bản khí mà thôi, thí dụ như tiết Kinh Trập, can tàng chính là Ất, nhưng thật ra còn có Giáp hành quyền 10 ngày đầu, sau đó mới tới Ất. Lý do là Giáp từ Khí của Tiết Lập Xuân còn lại.
- Lệnh: tức là hành chính của khoảng thời gian đó, nói rõ hơn là Can nào đại diện chính để biết nhật chủ (Can ngày) có tính cách vượng hay suy.

Có 5 Can dương: Giáp, Bính, Mậu, Canh, Nhâm
5 Can âm: Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý

Vòng trường sinh của vạn vật không thay đổi theo chu kỳ đi tới:
1. Trường sinh: mọc nầm, nảy sinh
2. Mộc dục: vừa được sinh ra, lố dạng
3. Quan đái: dần dần mạnh lên
4. Lâm quan: trưởng thành
5. Đế vượng: thành thục, mạnh mẽ cực độ
6. Suy: bắt đầu giảm chất lượng
7. Bệnh: khốn đốn, cơ cực
8. Tử: bị diệt, suy tàn
9. Mộ: trở về nơi tàng trữ
10. Tuyệt: tất cả các khí bị mất hết
11. Thai: khí lại bắt đầu giao nhau, kết thành thai
12. Dưỡng: đang phát mầm mống

Can dương thì đi thuận, can âm tính ngược trong vòng Trường sinh. Nói thế không phải là can âm bị tính từ Dưỡng trở về Trường Sinh, mà tính từ Ngọ là thời điểm dương đã lên cao, bắt đầu trở về quy trình âm.

Một ngày bắt đầu từ giờ Tí cho đến giờ Ngọ giữa trưa là đã thấy bắt đầu âm sinh trưởng, chiều tối đến giờ Hợi là chấm dứt một vòng. Vì thế các can âm trường sinh (bắt đầu lố dạng) tại nơi mà các can dương ở giai đoạn Tử.

Tam Hội - Tam Hợp

Phần tóm tắt hay đầu bài đăngPhần còn lại.
Các bạn có để ý rằng khi nói đến Địa Chi thì không đề cập đến quan hệ tương sinh (thí dụ như không nói Tí sinh Mão, hay Thìn sinh Dậu..) mà chỉ luận đến quan hệ KHẮC, XUNG, HÌNH, HẠI của các chi lẫn nhau mà thôi.

Nhưng các Chi có hợp lại thành HỘI hay thành CỤC, cũng là nằm trong ý nghĩa của sự tương trợ, tương sinh cho nhau và chỉ có ảnh hưởng mạnh khi chúng tụ họp lại. Khi xét trong Tử bình, đầu tiên là xét Tam hội, sau đó là Tam hợp Cục, vì lý do khí của tam hội mạnh hơn khi chúng dồn về 1 phương hướng, khí của chúng "thuần" nên rất mạnh, còn Tam Cục thì do vòng trường sinh tạo thành, lẫn nhiều tạp khí.

Cát hay Hung của Hội hay Cục là tùy theo tứ trụ. Có khi cần phải cần giải tán Hội, Cục để cứu lấy thân.

* Tam Hội
1) Phương Đông Mộc = Dần Mão Thìn
2) Phương Nam Hỏa = Tị Ngọ Mùi
3) Phương Tây Kim = Thân Dậu Tuất
4) Phương Bắc Thủy = Hợi Tý Sửu

Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là thổ trung ương, theo tiết trời là những tiết cuối của 4 mùa.

* Tam Cục
1) Thủy Cục = Thân Tí Thìn
2) Mộc Cục = Hợi Mão Mùi
3) Hỏa Cục = Dần Ngọ Tuất
4) Kim Cục = Tị Dậu Sửu

Theo bảng Sinh Vượng Tử Tuyệt của ngũ hành, thí dụ như hành Thủy trường sinh ở Thân (kim sinh thủy), vượng ở Tí (thủy đồng hành) và mộ ở Thìn (thổ cuối mùa Xuân), cho nên Thân-Tí-Thìn hợp lại thành Cục Thủy.

Các Thiên Can có quan hệ với nhau thì đầy đủ, có Sinh, có Khắc, có Hợp và Hóa. Chính vì thế mà dưới các Chi lại phải tìm Can tàng trong nó, tức là bản khí trời sinh ra của nó. Có Chi thuần khí, có Chi bị tạp khí. Nhưng chung quy là Tử bình xét qua Địa nguyên (CHI) tìm lại bản chất khí ban đầu của Thiên nguyên (CAN), và như thế cũng là tìm được Nhân nguyên (NGƯỜI).

Đó là thuyết Tam Tài. Thiên Can là trời cho, Địa nguyên là do sinh khí của đất, của cha mẹ tổ tiên, còn Can tàng ẩn trong địa chi đó chính là con người của ta nằm trong môi trường đang có. Vì thế nên luôn luôn có sản sinh ra cái mới mặc dù có sự lập lại của tứ trụ.

Đây là mấu chốt để hiểu tứ trụ là quan niệm của Tam Nguyên Vận Khí là như vậy.
Cảm ơn

Tử bình lấy ngày làm chủ và tiết tháng làm lệnh. Hai trụ này là không gian chính của thời điểm một người sinh ra đời. Trụ năm đã được tính theo vòng 60 niên mệnh, còn trụ giờ có tầm ảnh hưởng nhất định theo ngày.

Con người quá bé nhỏ trước một nguyên vận 180 năm, đối với 60 năm trung bình một đời người còn khả dĩ xem xét được, nên 12 tiết lệnh của tháng trong năm có tầm quan trọng lớn nhất của tứ trụ. Còn trụ giờ bổ sung vào làm cho sự tính toán có thể "nhìn thấy" được.

Nếu bạn nào đã có kinh nghiệm, thường thì khi có đủ 3 trụ là có thể suy ra được trụ giờ cho một cá thể thông qua vài phương pháp khác như nhân tướng học và xã hội học.

Quá trình từ sinh cho đến tử của vạn vật có thể chia ra làm 5 giai đoạn lớn hợp với sự sinh khắc của 5 Hành:

-Vượng: giai đoạn đang trên đà phát triển mạnh
-Tướng: giai đoạn đã phát triển, nhưng đứng yên
-Hưu: giai đoạn nghỉ ngơi, không còn sức phát triển nữa
-Tù: giai đoạn suy giảm, sa sút
-Tử: giai đoạn bị khắc chế hoàn toàn, sự vật chết

Trung bình cho 1 năm nếu tính gọn là 360 ngày thì mỗi một giai đoạn trên chiếm 72 ngày. Một năm chia ra làm 4 mùa Xuân Hạ Thu Đông có 24 tiết khí thì mỗi tiết trung bình chiếm 15 ngày. Nhưng theo các địa chi hành quyền trong 12 tháng có tàng chứa bản khí, trung khí và khí thừa khác nhau thì số ngày này được tính tùy theo tháng với 12 khí chính như sau (can cuối cùng là bản khí):

Tháng Giêng - Dần - Lập Xuân
- Mậu và Kỷ chung 7 ngày, Bính 7 ngày, Giáp 16 ngày
Tháng Hai - Mão - Kinh trập:
- Giáp 10 ngày, Ất 20 ngày
Tháng Ba - Thìn - Thanh Minh:
- Ất 9 ngày, Quý 3 ngày, Mậu 18 ngày (thổ cuối mùa)

Tháng Tư - Tỵ - Lập Hạ:
- Mậu 5 ngày, Canh 9 ngày, Bính 16 ngày
Tháng 5 - Ngọ - Mang Chủng:
- Bính 10 ngày, Kỷ 9 ngày, Đinh 11 ngày
Tháng 6 - Mùi - Tiểu Thử:
- Đinh 9 ngày, Ất 3 ngày, Kỷ 18 ngày (thổ cuối mùa)

Tháng 7 - Thân - Lập Thu:
- Mậu và Kỷ chung 10 ngày, Nhâm 3 ngày, Canh 17 ngày
Tháng 8 - Dậu - Bạch Lộ:
- Canh 10 ngày, Tân 20 ngày
Tháng 9 - Tuất - Hàn Lộ:
- Tân 9 ngày, Đinh 3 ngày, Mậu 18 (thổ cuối mùa)

Tháng 10 - Hợi - Lập Đông:
- Mậu 7 ngày, Giáp 5 ngày, Nhâm 18 ngày
Tháng 11 - Tý - Đại Tuyết:
- Nhâm 10 ngày, Quý 20 ngày
Tháng 12 - Sửu - Tiểu Hàn:
- Quý 9 ngày, Tân 3 ngày, Kỷ 18 (thổ cuối mùa)

Các bạn nhận thấy rằng Thìn Tuất Sửu Mùi có vị trí chuyển giao mùa rất rõ và chúng hành quyền vào những ngày cuối mùa rất mạnh. Khi đã sang mùa, hành Thổ đó còn lại vài ngày gọi là "dư khí".

Bản khí là hành cùng với địa chi, sang tháng sau, hành đó đọng lại vài ngày nhưng chỉ là dư khí. Thí dụ như cuối Lập Xuân, dương mộc (Giáp) mạnh, sang tháng Hai, 10 ngày đầu vẫn còn khí thừa của Giáp, nhưng không mạnh bằng.

Những tháng giữa mùa như tháng Mão (2), tháng Ngọ (5), tháng Dậu (8) và tháng Tý (11) thường được cho là thuần khí nhất vì là cao điểm của mùa nên có thể chỉ tính bản khí mà thôi. Thí dụ như tháng Mão thuần Ất mộc, âm tính mạnh.

Khi xét đoán lệnh tháng, cần nhớ những điều này để chọn dụng hỉ thần, vì nếu bản khí không mạnh thì không nên chọn, dụng thần sẽ không có lực.

Xung Hợp Giữa Can Chi

6 trường hợp trên sẽ gặp phải trong những cách xung, hợp, khắc, hại của Can và Chi như sau:

* CAN hợp nhau:
- Giáp +mộc hợp Kỷ -thổ (hóa Thổ)
- Ất -mộc hợp Canh -kim (hóa Kim)
- Bính +hỏa hợp Tân -kim (hóa Thủy)
- Đinh -hỏa hợp Nhâm +thủy (hóa Mộc)
- Mậu +thổ hợp Quý -thủy (hóa Hỏa)

Những cặp trên gặp nhau có HỢP nhưng không phải lúc nào cũng HÓA được (tức là 2 hành hợp lại chỉ còn 1 hành và rất mạnh). Cũng vậy, khi Chi gặp nhau mà tương hợp cũng sẽ có khi hóa được nếu gặp điều kiện đúng:

* CHI hợp nhau - Các bạn để ý có 2 trường hợp khác biệt cần chú ý vì hay nhầm lẫn:
1)- Lục hợp âm dương (1 âm và 1 dương khác hành, hợp nhau gặp đúng điều kiện sẽ hóa chung lại thành 1 hành):
- Tí +thủy hợp Sửu -thổ (hóa Thổ)
- Hợi -thủy hợp Dần +mộc (hóa Mộc)
- Mão -mộc hợp Tuất +thổ (hóa Hỏa)
- Thìn +thổ hợp Dậu -kim (hóa Kim)
- Tỵ -hỏa hợp Thân +kim (hóa Thủy)
- Riêng Ngọ +hỏa là Thái Dương và Mùi -thổ là Thái Âm có hợp mà không bao giờ hóa.

2)- Nhị hợp âm dương (1 âm và 1 dương cùng hành):
- Tý Hợi (+ - thủy)
- Dần Mão (+ - mộc)
- Tỵ Ngọ (+ - hỏa)
- Thân Dậu (+ - kim)
- Cặp Thìn Tuất và cặp Sửu Mùi (+ - thổ)

* CAN xung khắc (theo cơ chế đồng cực mà khác hành):
- Giáp Mậu (+mộc +thổ)
- Ất Kỷ (-mộc -thổ)
- Bính Canh (+hỏa +kim)
- Đinh Tân (-hỏa -kim)
- Mậu Nhâm (+thổ +thủy)
- Kỷ Quý (-thổ -thủy)
- Canh Giáp (+kim +mộc)
- Tân Ất (-kim -mộc)
- Nhâm Bính (+thủy +hỏa)
- Quý Đinh (-thủy -hỏa)

Khi Can xung khắc nhau mà ở giữa có Can hóa giải theo lý "tham sinh kỵ khắc" thì không còn xảy ra xung khắc nữa. Thí dụ: Giáp can năm khắc Mậu can ngày, nhưng có can tháng là Bính hỏa thì Giáp sinh cho Bính, không khắc Mậu nữa. Để ý là Bính dương hỏa mới tốt, chứ Đinh âm hỏa lại không cứu giải được trường hợp này.

* CHI xung nhau là các chi trên biểu đồ đối nghịch nhau và có hành tương phản tạo thành "lục xung" rất mạnh:
1)- Tứ Xung (đồng cực khác hành)
- Tý Ngọ (cùng là dương, thủy khắc hỏa)
- Tỵ Hợi (cùng là âm, thủy khắc hỏa)
- Mão Dậu (cùng là âm, kim khắc mộc)
- Dần Thân (cùng là dương, kim khắc mộc)

2)- Nhị xung (đồng cực đồng hành; chỉ có Thổ; nhưng xung mà không có khắc):
- Thìn Tuất
- Sửu Mùi

Ngoài ra còn có loại HẠI nhau, như ỷ mạnh hiếp yếu vậy, cho dù là tương sinh như Ngọ hỏa sinh cho Sửu thổ; Ngọ là dương, Sửu là âm, nhưng Ngọ và Sửu đứng đối nhau trên đồ hình tính theo cực âm-dương nên hại nhau chứ không sinh cho nữa. Điều này không theo cơ chế Khác Hành Sinh Khắc (điểm 4 bài đầu tiên), các bạn nên chú ý, loại tương hại này chỉ để tham khảo thêm mà thôi:
- Tí Mùi
- Sửu Ngọ
- Dần Tỵ
- Mão Thìn
- Thân Hợi
- Dậu Tuất

Phú Tử Vi

Phần tóm tắt hay đầu bài đăngPhần còn lại.
Đầu tiên là bài Thái Vi Phú:

1. Thái Vi Phú:

Đấu sổ chí huyền chí vi, lý chỉ nan minh, tuy thiết vấn vu các Thiên chi trung, do hữu ngôn nhi vị tận, chí như tinh chi phân dã, các hữu sở thuộc, thọ yểu hiền ngu, phú quý bần tiện, bất khả nhất khái luận nghị.
Kỳ tinh phân bố nhất thập nhị viên, sổ định hồ tam thập lục vị, nhập miếu vi kỳ, thất độ vi hư, đại để dĩ Thân Mệnh vi Phúc đức chi bản, gia dĩ căn nguyên vi cùng thông chi tư.
Tinh hữu đồng triền, số hữu phân định, tu minh kỳ sinh khắc chi yếu, tất tường hồ đắc viên thất độ chi phân.
Quan hồ Tử vi xá triền, ti nhất Thiên nghi chi tượng, suất liệt túc nhi thành viên, Thổ tinh cẩu cư kỳ viên, nhược khả di động, Kim tinh chuyên ti tài khố, tối phạ Không vong.
Đế tinh động tắc liệt tú bôn trì, Tham thủ Không nhi tài nguyên bất tụ.
Các tư kỳ chức, bất khả tham soa.
Cẩu hoặc bất sát kỳ cơ, cánh vong kỳ biến, tắc sổ chi tạo hóa viễn hĩ.
Lệ viết:
- Lộc phùng trùng phá, cát xứ tàng hung. Mã ngộ Không vong, chung thân bôn tẩu.
- Sinh phùng bại địa, phát dã hư hoa. Tuyệt xứ phùng sinh, sinh hoa bất bại.
- Tinh lâm miếu vượng, tái quan sinh khắc chi cơ. Mệnh tọa cường cung, tế sát chế hóa chi lý.
- Nhật Nguyệt tối hiềm phản bối. Lộc Mã tối hỉ giao trì.
- Thảng cư Không vong, đắc thất tối vi yếu khẩn. Nhược phùng bại địa, phù trì đại hữu kỳ công.
- Tử vi Thiên phủ toàn y Phụ Bật chi công. Thất sát Phá quân chuyên y Dương Linh chi ngược.
- Chư tinh cát, phùng hung dã cát. Chư tinh hung, phùng cát dã hung.
- Phụ Bật Giáp đế vi thượng phẩm. Đào hoa phạm chủ vi chí dâm.
- Quân thần khánh hội, tài thiện kinh bang.
- Khôi Việt đồng hành, vị cư thai phụ. Lộc văn củng Mệnh, quý nhi thả hiền.
- Nhật Nguyệt giáp Tài, bất quyền tắc phú. Mã đầu ***** kiếm, trấn vệ biên cương.
- Hình Tù giáp Ấn, hình trượng duy ti. Thiện Ấm triều cương, nhân từ chi trưởng.
- Quý nhập quý hương, phùng chi phú quý. Tài cư Tài vị, ngộ giả phú xa.
- Thái Dương cư Ngọ, vị chi Nhật lệ trung Thiên, hữu chuyên quyền chi quý, địch quốc chi phú.
- Thái âm cư Tý, hào viết thủy trừng quế ngạc, đắc thanh yếu chi chức, trung gián chi tài.
- Tử vi Phụ Bật đồng cung, nhất hô bách nặc cư thượng phẩm. Văn Hao cư Dần Mão, vị chi chúng thủy triều đông.
- Nhật Nguyệt thủ bất như chiếu hợp, Ấm Phúc tụ bất phạ hung nguy.
- Tham cư Hợi Tý, danh vi Phiếm thủy đào hoa. Hình ngộ Tham lang, hào viết phong lưu thải trượng.
- Thất sát Liêm trinh đồng vị, lộ thượng mãi thi. Phá quân Ám diệu đồng hương, thủy trung tác trủng.
- Lộc cư Nô bộc túng hữu quan dã bôn trì. Đế ngộ hung đồ tuy hoạch cát nhi vô đạo.
- Đế tọa kim xa tắc viết kim dư phủng trất. Phúc an Văn diệu vị chi ngọc tụ thiên hương.
- Thái Dương hội Văn xương vu Quan lộc, hoàng điện triêu ban, phú quý toàn mỹ.
- Thái âm hội Văn khúc vu Thê cung, thiềm cung chiết quế, văn chương toàn thịnh.
- Lộc tồn thủ vu Điền Tài, đôi kim tích ngọc. Tài Ấm tọa vu Thiên di, cự thương cao cổ.
- Hao cư Lộc vị, duyên đồ khất thực. Tham hội vượng cung, chung thân thử thiết.
- Sát cư Tuyệt địa, thiếu niên yểu tự Nhan Hồi. Tham tọa Sinh hương, thọ khảo vĩnh như Bành Tổ.
- Kỵ Ám đồng cư Thân Mệnh Tật ách, trầm khốn uông doanh. Hung tinh hội vu Phụ mẫu Thiên di, hình thương phá tổ.
- Hình Sát đồng Liêm trinh vu Quan lộc, gia hữu nan đào. Quan phù gia Hình Sát vu Thiên di, ly hương tao phối.
- Thiện Phúc cư Không vị, Thiên trúc sinh nhai. Phụ Bật đan thủ Mệnh cung, ly tông thứ xuất.
- Thất sát lâm vu Thân Mệnh gia ác sát, tất định tử vong. Linh Dương hợp vu Mệnh cung ngộ Bạch hổ, tu đương hình lục.
- Quan phủ phát vu cát diệu, lưu sát phạ phùng Phá quân. Dương Đà bằng Thái tuế dĩ dẫn hành, Bệnh phù Quan phù giai tác họa.
- Tấu thư Bác sĩ dữ lưu Lộc, tận tác cát tường. Lực sĩ Tướng quân đồng Thanh long, hiển kỳ quyền thế.
- Đồng tử hạn như thủy thượng phao ẩu, lão nhân hạn tự phong trung nhiên chúc. Ngộ sát vô chế nãi lưu niên tối kỵ,
Nhân sinh vinh nhục hạn nguyên tất hữu hưu cữu, xử thế cô bần sổ trung phùng hồ bác tạp, học chí thử thành huyền vi hĩ.

2. Hình tính phú
- Nguyên phu Tử vi đế tọa, sinh vi hậu trọng chi dung. Thiên phủ tôn tinh, dã tác thuần hòa chi thể.
- Kim ô viên mãn. Ngọc thỏ thanh kỳ.
- Thiên cơ vi bất trường bất đoản chi tư, tình hoài hảo thiện. Vũ khúc nãi chí yếu chí khẩn chi thao, tâm tính quả quyết.
- Thiên đồng phì mãn, mục tú thanh kỳ. Liêm trinh mi khoan, khẩu khoát diện hoành, vi nhân tính bạo, hảo phẫn hảo tranh.
- Tham lang vi thiện ác chi tinh, nhập miếu tất ứng trường tủng, xuất viên tất định ngoan hiêu.
- Cự môn nãi thị phi chi diệu, tại miếu đôn hậu ôn lương. Thiên tướng tinh thần, Thiên lương ổn trọng, tâm sự ngọc khiết băng thanh.
- Thất sát như Tử Lộ bạo hổ phùng hà. Hỏa Linh tự Dự Nhượng thốn than trang ách. Bạo hổ phùng hà hề mục thái hung ngoan, thôn thán trang ách hề ám lang thanh trầm.
- Tuấn nhã Văn xương mi thanh mục tú, lỗi lạc Văn khúc khẩu thiệt tiện nịnh, tại miếu định sinh dị chí, thất hãm tất hữu ban ngân.
- Tả phụ Hữu bật ôn lương quy mô, đoan trang cao sĩ. Thiên khôi Thiên việt cụ túc uy nghi, trọng hợp Tam thai tắc thập toàn mô phạm.
- Kình dương Đà la hình xú mạo thô, hữu kiểu trá thể thái.
- Phá quân bất nhân, bối trọng mi khoan, hành tọa yêu tà gian trá, hảo hành kinh hiểm.
- Tính mạo như xuân hòa ái, nãi thị Lộc tồn chi tính đức. Tình hoài tự hỏa phong xung, thử thành Phá Hao chi uy quyền.
- Tinh luận miếu vượng tối phạ Không vong, sát lạc Không vong cánh vô uy lực.
- Quyền Lộc nãi cửu khiếu chi kỳ, háo tích tán bình sinh chi phúc.
- Lộc phùng Lương Ấm bão tư tài ích dữ tha nhân, Hao ngộ Tham lang dâm tình vu tỉnh để.
- Tham tinh nhập vu mã viên dịch thiện dịch ác. Ác diệu phù đồng Thiện diệu bẩm tính bất thường.
- Tài cư Không vong ba tam lãm tứ, Văn khúc vượng cung văn nhất tri thập. Ám hợp Liêm trinh vi tham lạm chi tào lại.
- Thân Mệnh ti sổ thực gian đạo chi kỹ nhi, trư đồ chi lưu. Thiện Lộc định thị kỳ cao chi nghệ tế xảo, linh lỵ chi nhân.
- Nam cư sinh vượng tối yếu đắc địa, Nữ cư tử tuyệt chuyên khán phúc đức.
- Mệnh tối hiềm lập vu Bại vị. Tài nguyên khước phạ phùng Không vong.
- Cơ Hình Sát Ấm cô tinh luận tự tục chi cung gia ác tinh Kỵ Hao, bất vi kỳ đặc.
- Đà Hao Tù chi tinh thủ Phụ mẫu chi triền, quyết nhiên phá tổ hình thương.
- Kiêm chi đồng cách nghi tương, căn cơ yếu sát.
- Tử vi phì mãn, Thiên phủ tinh thần. Lộc tồn Lộc chủ, dã ứng hậu trọng.
- Nhật Nguyệt Khúc tương đồng Lương Cơ Xương giai vi mỹ tuấn chi tư, nãi thị thanh kỳ chi cách, thượng trường hạ đoản mục tú mi thanh.
- Tham lang đồng Vũ khúc hình tiểu thanh cao nhi lượng đại, Thiên đồng như Đà Kỵ phì mãn nhi mục miểu.
- Kình dương thân thể tao thương, nhược ngộ Hỏa Linh Cự Ám tất sinh dị chí. Hựu trị Hao Sát định chủ hình xú mạo thô.
- Nhược cư Tử Tuyệt chi hạn, đồng tử nhũ bộ đồ lao kỳ lực, lão giả diệc nhiên thọ chung.
- Thử sổ trung chi cương lĩnh, nãi vi tinh vĩ chi cơ quan. Ngoạn vị chuyên tinh, dĩ tham huyền diệu.
- Hạn hữu cao đê tinh tầm hỉ nộ, giả như vận hạn bác tạp chung hữu phù trầm.
- Như phùng sát địa canh yếu thôi tường thảng, ngộ Không vong tất tu tế sát. Tinh nghiên vu thử bất hoạn bất thần.

_3. Nữ Mệnh cốt tủy phú chú giải
1) Phủ Tướng chi tinh nữ Mệnh triền, tất đương tử quý dữ phu hiền.
Ngọ cung an Mệnh nhị tinh tọa thủ, Giáp sinh nhân hợp cách. Tý cung an Mệnh nhị tinh tọa thủ, Kỷ sinh nhân hợp cách. Thân cung an Mệnh nhị tinh tọa thủ, Canh sinh nhân hợp cách, tất thụ vinh ưng phong cáo thị dã.
2) Liêm trinh thanh bạch năng tương thủ.
Thử tinh Mùi cung an Mệnh, Giáp sinh nhân hợp cách. Thân cung tọa Mệnh, Quý sinh nhân hợp cách. Dần cung tọa Mệnh, Kỷ sinh nhân hợp cách, câu vi thượng cục.
3) Cánh hữu Thiên đồng lý diệc nhiên.
Thử tinh Dần cung tọa Mệnh, Giáp sinh nhân hợp cách. Mão cung tọa Mệnh, ất sinh nhân hợp cách. Tuất cung tọa Mệnh, Đinh sinh nhân hợp cách. Tị cung tọa Mệnh, Bính Tân sinh nhân hợp cách. Hợi cung tọa Mệnh, Bính Nhâm sinh nhân hợp cách, nhi chủ phú quý.
4) Đoan chính Tử vi Thái Dương tinh, tảo ngộ hiền phu tính khả bằng.
Tý Tị Hợi tam cung an Mệnh, nhị tinh tọa thủ bất gia sát chủ phú quý.
5) Thái Dương Dần đáo Ngọ, ngộ cát chung thị phúc.
Ngọ cung an Mệnh Thái Dương tọa thủ định chủ phú quý, hãm địa bình thường.
6) Tả phụ Thiên Khôi vi phúc thọ, Tả Bật Thiên tướng phúc lai lâm.
Tứ tinh chư cung đắc địa, như Thân Mệnh trị thử tọa thủ, định chủ phúc thọ vinh Xương.
7) Lộc tồn hậu trọng đa y thực, Phủ Tướng triều viên Mệnh tất vinh.
Lộc tồn chư cung thủ Mệnh Tịnh Kiến Tử Phủ Vũ khúc tam hợp thủ chiếu, bất phú tức quý. Duy Dần tại Thân, Thân tại Dần, vi triêu viên chi cách, Giáp Canh sinh nhân thượng cục, Tân Ất sinh nhân thứ chi. Bính Mậu Đinh Kỷ Nhâm Quý sinh nhân, ngộ Tị Hợi Tý Ngọ an Mệnh bất cát.
8) Tử Phủ Tị Hợi tương hỗ phụ, Tả Hữu phù trì phúc tất sinh.
Tị Hợi nhị cung an Mệnh, ngộ Tử Phủ Tả Hữu thủ chiếu trùng giáp, canh kiêm hóa cát tinh đa, phú quý tất hĩ.
9) Cự môn Thiên cơ vi phá đãng.
Dần Mão Thân cung an Mệnh Cự Cơ phùng chi, tuy vi vượng địa, nhiên chung phúc bất toàn mỹ, hoặc phú quý bất miễn tư tình, như cư hãm địa hạ tiện.
10) Thiên lương Nguyệt diệu nữ Mệnh bần.
Tị Hợi an Mệnh Thiên lương trị chi. Dần Thần an Mệnh Thái âm trị chi, túng sử trinh chính y Lộc nan toại, như hãm địa tắc chủ hạ tiện.
11) Kình dương Hỏa tinh vi hạ tiện.
Thử nhị tinh thủ Mệnh vượng cung do khả, đãn hình khắc bất miễn nhĩ. Như cư hãm địa gia sát chủ hạ tiện, bất nhiên tắc yểu.
12) Văn xương Văn khúc phúc bất toàn.
Thử nhị tinh nghi nam bất nghi nữ dã.
13) Vũ khúc chi tinh vi quả tú.
Thử tinh nghi nam bất nghi nữ, như trị Thái âm đắc lệnh tam phương cát củng khả vi nữ tướng. Như hãm địa ngộ Xương Khúc gia sát tắc chủ cô quả.
14) Phá quân nhất diệu tính nan minh.
Thử vi cô độc dâm dật chi tinh, nữ nhân bất nghi, gia tứ sát tất nhân gian mưu phu, nhân đố hại tử, bất nhiên tắc vi hạ tỳ xướng kỹ khả dã.
15) Tham lang nội ngoan đa dâm dật.
Thử danh vi Đào hoa, nãi hảo sắc chi tinh, bất dung thiếp tỳ, tâm hữu tật đố, nhân gian mưu phu hại tử, túng bất chí thử chi thậm dâm dật tối nghiệm.
16) Thất sát trầm ngâm phúc bất vinh.
Thử tương tương chi tinh, nhược cư miếu vượng, chủ vi nữ tướng. Bí vân: Cơ Nguyệt Dần Thân nữ Mệnh phùng, ác sát gia chi dâm xảo dung, tiện hữu cát hóa chung bất mỹ, thiên phòng thị phụng chủ nhân ông.
17) Thập kiền Hóa Lộc tối vinh xương, nữ Mệnh phùng chi đại cát xương, canh đắc Lộc tồn tương thấu hợp, vượng phu ích tử thụ ân quang.
Như Mệnh tọa hóa Lộc, hựu đắc Lộc tồn trùng hợp, hoặc tuần phùng hoặc đồng cung, giai chủ Mệnh Phụ chi quý, bất nhiên diệc chủ đại phú tất sinh quý tử.
18) Hỏa Linh Dương Đà cập Cự môn, Thiên không Địa kiếp hựu tương lâm, Tham lang Thất sát Liêm trinh tú, Vũ khúc gia lâm khắc hại xâm.
Đại để thử đẳng tinh nữ Mệnh bất nghi phùng, như nội phùng nhất nhị diệc chủ dâm tiện, nhược tịnh kiến chi, chủ hạ tiện bần yểu chi Mệnh hĩ.
19) Tam phương tứ chính hiềm phùng Phá, canh tại phu cung họa hoạn thâm, nhược thị bản cung vô chính diệu, tất chủ sinh ly khắc hại chân.
Thử dụ tiền sổ tinh chi trung, duy Thất sát tam phương tứ chính Thân Mệnh phu cung câu bất nghi kiến, kiến chi giả y thử đoạn.
Dĩ thượng luận phú câu hệ khán Mệnh chi Pháp, điều điều hữu nghiệm, nghi tế ngoạn vị, đắc chi vu tâm, kỳ phú quý bần tiện vinh hoa thọ yêu, liễu nhiên tại hung khảm hĩ.

4. Phú Tử vi của Lê Quí Đôn

Phú Lê Quí Đôn Cho Cung Mệnh

Một là bàn đến Mệnh viên.
Cứ sao thủ Mệnh đoán nên tính tình.
Tử Vi trọng hậu dung hình.
Thiên Phủ tiết hạnh, thông minh ôn hòa.
Hai sao đều gặp một nhà.
Thiên tư ôn nhuận thiệt là tốt ghê.
Lòng thanh tịnh gặp Thiên Cơ.
Khúc Tinh nhập miếu, anh kỳ tài năng.
Thái Âm viên mãn ai bằng.
Thiên Đồng phì mãn, tính bằng ôn lương.
Phá, Liêm to nhỏ khác thường.
Tính tình cương trực, kết đường tà gian.
Thiên Lương từ hậu dung nhan.
Sát, Hình miếu địa, khôn ngoan anh hùng.
Tham Lang tính bẩm thung dung.
Say miền gái đẹp, rượu nồng miếng ngon.
Thái Dương tính khí thực khôn.
Thanh kỳ bậc nhất, tư lương khác thường.
Kìa như Văn Khúc, Văn Xương.
Tư nhan khả ái, thông đường văn chương.
Cự Môn tính khí bất thường.
Hể khi xử sự, tìm đường đảo điên.
Thiên Tướng, lòng thẳng mặt hiền.
Thiên tư mỹ lệ Khoa, Quyền hẳn hoi.
Thanh bần ấy thật Việt, Khôi.
Lại thêm Thai Phụ là nòi khoan dung.
Phụ Bật tuấn tú vốn dòng.
Đáng tài hơn chúng, tốt dùng chẳng không.
Phụ Bật đơn thủ Mệnh cung.
Đoán rằng số ấy ly tông cửa nhà.
Phượng, Trì đều hợp Mệnh ta.
Làm người cốt cách, ôn hòa tốt thay.
Tuế, Riêu họa xướng như lời.
Kình, Hư lòng gió là người sai ngoa.
Mây mưa ấy thật Đào Hoa.
Lòng kia đố kỵ, Kình, Đà xấu trông.
Trán đen, tính nóng, Kiếp Không.
Hỏa, Linh mặt mũi hình dung bi sầu.
Tuế Phá lạc hãm một âu.
Tiếng tăm như sấm ra màu vẽ vang.
Kìa như nói chẳng hé răng.
Thiên Hình đốn thủ chốn đằng Mệnh cung.
Lộc, Mã khéo kiêm nàn nồng.
Phúc, Thư bá đạo, mong trông một lòng.
Hoa Cái má phấn lưng ong.
Hỷ Thần dài dọng, tam hung, tràng đầu.
Triệt, Không tính những chẳng âu.
Hung trung vô định ra màu gian nan.
Tuế, Tham trong dạ đa đoan.
Kỵ, Riêu tửu sắc, một đàn ngao du.
Hổ, Tang chẳng việc mà lo.
Quan Phù, Điếu Khách hay phô rộng lời.
Lưỡng Hao nhỏ nhặt hình người.
Phi Liêm tóc tốt, có tuổi mà đau.
Quý, Ân phong độ trượng phu.
Chẳng hay quân Tử hình thù cũng xinh.
Tướng Quân chỉ thích dụng binh.
Bệnh Phù đối tật trong mình chẳng không.
Cô , Quả thiết kỵ riêng lòng.
Trường Sinh, Đế Vượng vốn lòng Thiên Lương.
Đào Hoa, Mộc Dục diễm trang.
Lâm Quan tính khí dịu dàng, tinh anh.
Mộ thì chẳng được thông minh.
Thai hay mê hoặc lại hay tha tùng.
Triệt mà gặp được Kim cung.
Tinh thần thanh sảng, thung dung đế thần.
Tuyệt phùng Hỏa Địa một khi.
Hiên ngang chí khí, gặp thì thung dung.
Kìa Suy, Bệnh, Tử ba dòng.
Gặp vào nước ấy, ai dung, ai màng?
Hóa Lộc tính khí dịu dàng.
Bác Sĩ tính nết tìm đường tư hoa.
Thiên Đức, Nguyệt Đức khoan hòa.
Lộc Tồn đôn hậu, thiệt là qui mô.
Phá Quân tâm tính hồ đồ.
Kiếp Sát xử sự ba đào mênh mông.
Xem trong nhân tính đã xong.
Lại tinh cho thấu các cung Ngũ hành.
Tường chân tính, nhận chân hình.
Chẳng non chấp nhất, lựa mình mà suy.
Ví như thuộc Thổ Tử Vi.
Tính trì mà gặp Hỏa thì lại nhanh.
Thiên Phủ vốn tính hóa lành.
Song gặp Không, Kiếp thời rằng khắc thâm.

Phú Lê Quí Đôn Cho Cung Phụ Mẫu

Số hai Phụ Mẫu kể tường.
Âm, Dương, ngộ hãm là đường khắc xung.
Hãm Dương, khắc phụ đã xong.
Hãm Âm khắc mẫu vào vòng chẳng sai.
Hổ, Tang, Thái Tuế cùng bày.
Lưu Dương lại gặp đoán rày khắc cha.
Gặp sao Hóa Kỵ khiếm hòa.
Thiên Hình, Tuần, Triệt mẹ cha mất rồi.
Cáo, Phụ có chức, có ngôi.
Khúc, Xương, Thái Tuế thì người cũng sang.
Khôi, Khoa phát đạt khoa tràng.
Khôi, Quyền chính trướng đường đường tốt thông.
Thanh bần ấy phải Kỵ, Không.
Nhược bằng Lộc Mã phú ông ai tày.

Phú Lê Quí Đôn Cho Cung Phúc Đức

Số ba Phúc Đức kể liền.
Lộc, Quyền hội ngộ trong miền bản cung.
Ở đời vinh hiển đã xong.
Kiếp, Không ở đấy bần cùng khốn thay.
Nay đây mai đó càng hay.
Lại xem cung ấy sống tày được bao?
Đồng, Lương, Tử , Phủ bốn sao.
Trên tuần bát cửu thọ nào ai hơn.
Âm, Dương, Xương, Khúc, Lộc Tồn.
Với sao Thiên Tướng, Cự Môn tinh trần.
Thọ mệnh vượt khỏi thất tuần.
Miếu thì thong thả, hãm thì tân toan.
Liêm Cự ta lại phải bàn.
Ngoại tuần lục thập mới hoàn Diêm la.
Việt, Khôi, Tả, Hữu, Quyền, Khoa.
Lộc, Tham, Đế Vượng thật là Trường Sinh.
Đà La, Dương Cự, Hỏa, Linh.
Vào thì ba bốn rành lành chẳng sai.
Kiếp, Không, Hỷ khổ cùng bày.
Thiên Hình, Hóa Kỵ mới loài bạch tang.
Nhị Phù tổn thọ một phương.
Thật là lạc Mộ , nên đường chẳng sai.
Sát, Liêm, Tứ Sát cùng bày.
Kẻ lâm bần yểu xưa nay rõ ràng.
Cao thanh, Thọ, Quý, Ân Quang.
Những là sao ấy thọ tràng kỳ hy.
Lại lấy Thân, Mệnh mà suy.
Nam tinh chính chiếu thọ kỳ vô cương.
Đã xem hướng thọ đoán tường.
Lại xem Phúc Đức đoán phương âm phần.
Trường Sinh chính nhất thập phần.
Gặp sao Quan, Phúc, Quý thần chầu trong.
Phúc, Liêm, Nội ngoại thong dong.
Khoa, Quyền, Xương, Khúc vốn dòng văn gia.
Vũ, Tham mà gặp Hóa Khoa.
Ấy là đất phát để ra anh hùng.
Cự Môn, Hóa Lộc tương phùng.
Đoán rằng phú quý gia phong đời đời.
Nay là đoán trước mấy lời,
Được đất ấm nghiệm chẳng sai đâu là.
Lại xem hướng mạch kể ra,
Trước thì khởi tố ấy là Trường Sinh.
Thanh Long ấy cuộc long hành,
Đến đâu nhập thủ xem hình chiếu lâm.
Phải lấy chi tự (Địa chi) phân kim,
Xem cho chuẩn đích đoán tìm mới ngoan.
Trước so Dương Nhận, Hồng Loan,
Nga mi tác án yên bàn chẳng sai.
Long, Hồng là thủy nhập hoài.
Tùy cung mà đoán cho người mới thông.
Lại như Vũ Khúc, Triệt Không,
Lấy làm hành lộ khuỳnh khuỳnh trước sau.
Long Trì Bạch Hổ lại chầu,
Xem bên Tả, Hữu mới hầu luận xong.
Bên tả có sao Thanh Long,
Lấy Long Trì thủy chầu vòng tả biên.
Bên hửu Bạch Hổ đã yên,
Lấy làm Bạch Hổ chầu bên hữu này.
Lại xem tinh tú yên bày,
Thái Dương, Vũ, Tướng cùng rày Phá Quân.
Khoa, Quyền, Khôi, Việt tinh trần,
Lấy làm Dương Mộ mười phần chẳng sai.
Còn như đoán mả đàn bà,
Xem sao miếu vượng gần xa, đoán đời.
Tử , Phủ, Tổ Mộ chẳng chơi,
Lạc nhàn thì đoán gần đời mà suy.
Thiên Đức, Nguyệt Đức một vì,
Mộ phần thiên táng ấy thì chẳng sai.
Phúc từ tông tổ truyền ngay,
Vũ năm, Đồng tứ, chẳng sai chút nào.
Liêm Trinh bảy tám đời cao.
Thái Dương là bố, lẻ nào chẳng tin.
Cha còn thì đoán ông liền,
Ấy là Dương Mộ đoán miền Dương tinh.
Thiên Phủ viên tổ đã đành.
Tham sáu, Cự bảy, Lương rành tám thôi.
Phá Quân, Thất Sát xa đời.
Thái Âm là mẹ gần nơi đó mà.
Nếu còn thì kể đến bà.
Ấy là Âm Mộ thuộc tòa Âm cung.
Thiên Đức, Nguyệt Đức tương phùng.
Mộ phần thiên táng ắt cùng chẳng sai.
Suy xem tình tính hẳn hòi.
Ấy là chứng nghiệm mà soi cho tường.
Đà La ngộ Dưỡng chẳng thường.
Đoán rằng đạo táng gần phương mã này.
Lại tùy chính diệu suy bày.
Lại nhân Không, Kiếp đoán rày lạc phân.
Hoa Cái, Phượng Các tân phần.
Tấu Thư, Xương, Khúc là thần đồng ra.
Hoặc là Khôi, Việt thêm Khoa.
Đạikhoa sự nghiệp vinh hoa vô cùng.
Lộc Tồn, Hóa Lộc tương phùng.
Ấy là phú quý vốn dòng chẳng không.
Tử Vi nhập miếu vượng cung.
Phá Quân có kẻ chầu trong vương kỳ.
Lương, Tham thọ khảo kỳ hy.
Lại xem đất phát cung phi vẻ nào.
Bởi chưng Hoa Cái, Hồng, Đào.
Gặp sao Tử , Thái gái chầu quân vương.
Đế Vượng đóng chính cung tường.
Ắt là trong họ vượng đường nhân đinh.
Tuế, Phù tụng sự tương tranh.
Lộc Tồn, Cô, Tú, độc đinh thường thường.
Tang Môn, Quả Tú bất thường.
Ắt là trong họ gái thường quả phu.
Phục Binh ngộ Tử phải lo.
Có người bị trận, chết co ngoài đường.
Mộ cư Phúc Đức đường đường.
Lại thêm Thai, Tọa ấy trường sinh ta.
Hỷ Thần, Thiên Hỷ hoặc gia.
Ấy là đắc địa chẳng hòa được đâu.
Lại bàn hình thể mỗi màu.
Tổ sơn là Tử , Phủ chầu kể ra.
Mộc Tinh là Thiên Cơ gia.
Kim tinh Vũ Khúc, Mộc là Tham Lang.
Văn Khúc là Thủy đạo đường.
Liêm Trinh là Hỏa, Thiên Lương Thổ này.
Âm long, Âm hướng Thái Âm.
Thất Sát cùng Hỏa Tinh lâm.
Phá Quân là Thủy, Cự tầm Thổ tinh.
Thiên Đồng, Thiên Tướng đất binh,
Sao Dưỡng là núi, sao Linh bút bày.
Mộc, Trì là giếng gần đây,
Thiên Quan, Thiên Phúc gần ngay Phật, Thần.
Kiếp, Không lo táng Dương phần.
Kỵ, Riêu là Thủy, Thất nhân hoàng tuyền.
Thanh Long có suối lưu truyền.
Bạch Hổ đá trắng ở biên Mộ đường.
Khoa, Quyền là bảng văn chương.
Lộc, Kỵ, Việt kiếm rõ ràng đó đây.
Ấy là phần mộ đoán bày.
Cốt xem Phúc Đức mới hay mọi đường.

(Tứ Sát là Kình Dương, Đà La, Địa Không, Địa Kiếp)

Phú Lê Quí Đôn Cho Cung Điền Trạch

Bốn, là bàn đến Cung Điền.
Phủ, Vi đóng đấy, tài điền vượng thay.
Vũ, Cơ tài sản cũng hay.
Song hiềm hoán dịch ngày này nhiều phen.
Âm, Dương miếu ấy đa điền.
Nhược bằng ngộ hãm vào miền bằng chân.
Thiên Đồng hậu dị, tiên nan.
Tham Lang tổ nghiệp phá tan lại thành.
Cự Môn tổ nghiệp tan tành.
Sinh ra đời chắc sau rành được yên.
Sát tinh bỗng chốc mà lên.
Nhược phùng hãm địa, bình yên thường thường.
Phá Quân của khéo dỡ dang.
Nhược bằng ngộ hãm là tường khó khăn.
Tướng, Lương, Phù, Bật, Khoa, Văn.
Việt, Khôi, Quyền, Lộc, Mã gần Trường Sinh.
Điền viên đều vượng tậu thành.
Hỏa, Linh, Không, Kiếp, Đà, Kình lục tinh.
Nhị Hao, Kiếp Sát, Phục Binh.
Không Vong, Tang Tú Phù Tinh vô điền.

Phú Lê Quí Đôn Cho Cung Quan Lộc

Năm là Quan Lộc đoán ngay.
Thái Dương, Xương, Khúc ở đây cung này.
Sân rồng chầu chực đêm ngày.
Đoán rằng số ấy tốt thay lạ thường.
Việt, Khôi, Tả, Hữu, Cơ, Lương.
Khoa, Quyền, Tử , Phủ hợp cùng Trường Sinh.
Tướng, Đồng, Lộc, Mã, Vũ tinh.
Đều là cát tú cho mình vang danh.
Âm, Dương, Quyền, Lộc được rành.
Nếu mà hãm địa ắt thành lại hao.
Liêm Trinh vũ chức, quyền cao.
Nhược bằng ngộ hãm , khỏi nào hình danh.
Tham Lang mà gặp Hỏa, Linh.
Miếu thì phú quý, hãm thì bình thôi.
Thất Sát, Tý, Ngọ, ở ngôi.
Vượng thì võ chức, hãm thời hình thương.
Phá Quân lao khổ trăm đường.
Nhược ngôi Tý, Ngọ tài thường vượng thay.
Tham Lang, Xương, Khúc ngày rày.
Ngọ cung Tỵ, Hợi quan này làm ru.
Liêm Tham, Đà, Cự phải lo.
Cung quan lận đận, quanh co phận mình.
Phù, Tang, Không, Kiếp, Hỏa, Linh.
Khốc, Hư, Đà, Nhận, Kiếp, Kình nhị Hao.
Phục Binh, Phá, Tú, hội vào.
Đoán rằng quyền lộc làm sao cũng hèn.

Phú Lê Quí Đôn Cho Cung Nô Bộc

Sáu là Nô Bộc đoán tường.
Tử , Phủ, Tả, Bật, Âm, Dương, Lương Đồng.
Việt, Khôi, Tam Hóa, tương phùng.
Cáo, Loan, Cơ, Mã lại cùng Tướng tinh.
Quý, Quang, Xương, Khúc cùng lành.
Vũ tinh mà đóng rành rành bản cung.
No thì nó ở hầu ông.
Đói thì nó bước chẳng mong nói gì.
Liêm Trinh kìa nó càng ghê.
Làm ân nên oán trăm bề mỉa mai.
Tham Lang vì nó hao tài.
Cự Môn báo oán những loài thị phi.
Thất Sát sinh sự thị phi.
Phá Quân hàn khổ như thì cận quanh.
Còn như Không, Kiếp, Phục Binh.
Dương, Linh, Đà, Kỵ, Thiên Hình, Khốc, Hư.
Nhị Hao, Quan Phủ, Quan Phù.
Gặp phường trộm cắp phải lo tổn tài.

Phú Lê Quí Đôn Cho Cung Thiên Di

Bảy là bàn đến Thiên Di.
Lộc Tồn, Hóa Lộc tốt thì hòa hai.
Vũ, Lương, cự phú chẳng sai.
Khúc, Xương, Tử, Phủ, Việt, Khôi, Khoa, Quyền.
Âm, Dương, Tả, Hữu rất hiền.
Cùng là Đồng, Tướng gần miền quý nhân.
Thiên Cơ lẩn thẩn, khốn thân.
Nhược bằng ngộ Cát, mười phần tốt thay.
Liêm Trinh nội trợ, ngoại hay.
Đi thì cũng lợi, mới tầy Tham Lang.
Lại thêm dâm dục hoang tàng.
Vũ tinh xuất ngoại lại càng được yêu.
Cự Môn khẩu thiệt đảo điên.
Nhị Phù, Phá, Tú cũng miền Thiên Di.
Đoán rằng lộ thượng, mai thi.
Phá Quân, Thất Sát ắt thì chẳng yên.
Tham Lang, Hóa Kỵ hợp miền.
Luận rằng lộ tử, chẳng tuyền được đâu.
Cự Môn, Linh, Hỏa xung nhau.
Tử ư đạo lộ ra màu xo ro.
Liêm Trinh, Quan Phủ, Quan Phù.
Ấy là tử nghiệp chẳng hòa được đâu.
Kìa như đạo lộ phải âu.
Bởi Liêm, Sát, Phá vào hầu Thiên Di.
Tứ Sát đóng chính cung tường.
Ách nguy thêm lại hại đường tổ tông.
Vũ, Liêm chẳng khá đồng cung.
Luận rằng số ấy bần cùng ai qua.
Hỏa, Linh, Không, Kiếp, Dương, Đà.
Tham Lang, Hình, Kỵ cùng là Khốc, Hư.
Phá Quân phường ấy phải lo.
Thiên Di cung ấy đoán cho kỹ càng.

Phú Lê Quí Đôn Cho Cung Tật Ách

Tám là Tật Ách chẳng âu.
Âm, Dương phản bội làm màu bất minh.
Mệnh cung có Địa Không tinh.
Nhan manh mục tật, rành rành phải đương.
Phá, Liêm, Hình, Kỵ, Đà, Dương.
Đã đau bên mắt, lại càng bệnh điên.
Khúc, Xương, Tả, Hữu vào miền.
Việt, Khôi, Tử , Phủ, Khoa, Quyền, Đồng, Lương.
Lộc Tồn, Hóa Lộc một phương.
Ốm thì lại gặp thuốc thang sợ gì.
Thiên Cơ phải chứng thấp tê.
Nhược bằng thêm Sát mặt thì vết ngang.
Phong đàm bệnh ấy liền liền.
Bởi sao Cơ, Khúc đóng miền Ách phương.
Nhược bằng gia Sát, trỉ vương.
Thái Âm đau bụng, Thái Dương đau đầu.
Thêm Đà, Kỵ, Sát cũng rầu.
Đoán rằng mục tật, ấy hầu phải đau.
Phá Quân khí huyết bất điều.
Đồng, Lương, hàn, nhiệt là điều phải lo.
Tướng thì đau ở bì phu.
Âm, Dương, Cự, Liêm, hình thù cơ nghinh.
Đà La, Dương Nhận ít yên.
Đau chân, nhức mắt chẳng hiền được đâu.
Dương, Đà, Phá, Kỵ mắt đau.
Bởi đường sao ấy gặp tầy Tham Lang.
Sát tinh thấp khí yếu đau.
Tử, Sát có bệnh bởi hầu Sát gia.
Tham Lang Tật Ách xông pha.
Lưng, chân có bệnh, chẳng hòa được chăng.
Cự Môn mặt vết rõ ràng.
Tứ chi có tật xấu chàng hổ ai.
Kỵ, Hình đau mắt chẳng sai.
Kình, Đà, Linh, Hỏa cùng loài một phương.
Mặt kia có vết rõ đường.
Lại thêm bệnh trỉ nên thường phải e.

Phú Lê Quí Đôn Cho Cung Tài Bạch

Thứ chín kể đến Cung Tài.
Để mà thí nghiệm mấy lời kể ra.
Vũ, Lộc, Thiên Mã cùng gia.
Tử , Phủ mà gặp, phương xa nhiều tiền.
Tử Vi, Tả, Hữu rất hiền.
Lâm Quan Tài Bạch ngoài miền lợi danh.
Thái Âm mà với Vũ tinh.
Luận bàn cũng phải rành rành chẳng sai.
Âm, Dương, Tả, Hữu giáp lai.
Có sao Đế Vượng cùng ngồi chính trung.
Luận làm địch quốc phú phong.
Đồng, Cơ, Vũ Khúc, tay không làm giàu.
Âm, Dương tài vượng khá mau.
Nhược bằng hãm địa, có hầu lại không.
Sát tinh đóng Tý, Ngọ cung.
Hoạnh tài hoạnh phát đùng đùng chứa chan.
Chủ cung phút hợp phút tan.
Lộc Tồn, Hóa Lộc giàu sang trăm đường.
Phá Quân tụ tán chẳng thường.
Việt, Khôi, Tả, Hữu, Khúc, Xương, Khoa, Quyền.
Với sao Hóa Lộc ở miền.
Ấy là phát phúc, Tài, Điền vượng hay.
Liêm Trinh sao ấy luận ngay.
Lộc Tồn, Vũ Khúc đóng rầy Tài cung.
Ấy là đại phát phú ông.
Kiếp, Không ở đấy, bần cùng chẳng sai.
Dương, Đà, Linh, Hỏa tán tài.
Hỏa, Hình, Hư, Khốc cùng loài như nhau.

Phú Lê Quí Đôn Cho Cung Tử Tức

Thứ mười Tử Tức kể bày.
Trước sinh nam tử, nhiều bày Nam tinh.
Bắc tinh ấy gái trước sinh.
Sinh ngày Âm Kỵ chiếm rành bản cung.
Sinh đêm Dương Kỵ chiếm cung.
Âm, Dương lâm Tý là vòng khắc xung.
Vắng sao chính diệu Tử cung.
Phải tìm đối chiếu luận cùng mới xong.
Phủ, Vi, Đế Vượng, Thiên Đồng.
Khúc, Xương, Tả, Hữu luận cùng năm tên.
Nhược bằng gặp Sát cũng hèn.
Dương, Âm, cùng ngộ Lâm Quan một đoàn.
Tướng, Lương, Quan Đới rõ ràng.
Ấy là cung được ba hàng thành thân.
Khoa, Quyền, thêm Lộc tinh trần.
Việt, Khôi, Thiên Mã mười phần quý nhân.

Phú Lê Quí Đôn Cho Cung Phu Thê

Mười một bàn đến Thê cung.
Nhân thê trí phú bởi phùng Thái Dương.
Âm phùng Hao Tú một phương.
Thành hôn chẳng lọ phải đường cưới xin.
Dương, Đồng đa vợ mà hiền.
Kìa như Lộc Mã tại điền vượng thay.
Âm phùng Xương, Khúc ngày rày.
Cung trăng bẻ quế xem tày lên tiên.
Tử, Phủ hòa hợp bách niên.
Đồng, Cơ trai gái kết nguyền cũng xinh.
Trai tơ gái trẻ đã rành.
Âm, Dương miếu địa sớm thành nhân duyên.
Nhược bằng hãm địa sau nên.
Vũ tinh gia Sát đôi bên khiếm hòa.
Tướng, Lương sớm nổi thành gia.
Sát gia sắc đẹp lấy nhà trưởng nhân.
Khúc, Xương, Tả, Hữu tinh trần.
Thông minh giai lão trăm phần tốt thay.
Lộc Tồn muộn vợ nhưng hay.
Tham Lang sớm lấy người rày khắc xung.
Tham mà gặp Sát tối hung.
Phá Quân sớm khắc, ít lòng chính chuyên.
Liêm Trinh phải khắc ba tên.
Cự Môn, Thất Sát luận bàn chớ quên.
Sát tinh xung khắc đã quen.
Ấy người dâm dục về miền trăng hoa.
Khôi, Việt, gặp Lộc, Quyền, Khoa.
Quý nhân sánh mấy duyên ta tốt lành.
Linh Tinh, Kỵ, Hỏa, Đà, Kình.
Khốc, Hư, Không, Kiếp đã rành khắc xung.
Nhược bằng Cát Tú tương phùng.
Cùng là giúp được vào vòng thiên ninh.
Tam phương mà gặp Sát, Hình.
Ly hương kết phối rành rành chẳng sai

Phú Lê Quí Đôn Cho Cung Huynh Đệ

Mười hai Huynh Đệ bàn liền.
Triệt, Không cũng thấy trong miền bản cung.
Bắt đầu thì đoán khắc xung.
Hoặc gia Địa Kiếp, Thiên Không chẳng nhiều.
Tướng Quân, Lộc, Mã cũng nhiều.
Anh em giàu có phú nhiêu được dùng.
Tướng Quân, Hóa Lộc tương phùng.
Anh em có kẻ ở trong cửa quyền.
Trường Sinh, Đế Vượng lâm liền.
Anh em có kẻ tất nhiên yên bài.
Thái Dương, Thái Âm giáp Thai.
Sinh đôi một đối chẳng sai tí nào.
Vượng, Thai, Tuyệt, Tướng thấu vào.
Anh em ắt có dị bào chẳng không.
Đào, Riêu, Thiên Hỷ trong cung.
Phá Quân tính xử đối xung ở ngoài.
Có chị em gái theo trai.
Say mê đến nỗi hoang thai hổ mình.
Trong thì Tướng, Phá, Phục Binh.
Ngoài thì Hoa Cái cung tinh Đào, Hồng.
Tường hoa liễu ngỏ ngóng trông,Anh em có kẻ dâm thông hẳn là.
Gặp sao Hóa Kỵ khiếm hòa.
Thiên Hình thường có trong nhà giành nhau.
Lộc, Mã buôn bán làm giàu.
Nhược bằng Cự, Tướng ra màu thổ công.
Tử, Phù, Hữu, Bật tương phùng.
Có chị em gái lộn chồng đi ra.
Thiên Khôi ba kẻ anh ta.
Thiên Việt ba kẻ em ta bày đoàn.
Xương, Khúc, Thái Tuế đều yên.
Có người xã trưởng khôn ngoan ai cùng.
Tuyệt, Không, Không, Kiếp chính cung.
Hoặc gia Cát hội lai phùng Dương tinh.
Luận làm nghĩa dưỡng anh em.
Hoặc thêm Đà, Cự, Hỏa, Linh, đoán cùng

ĐOÁN HẠN TỬ BIỆT:
Lại xem sinh tử đoàn niên
Vận cung Thái-tuế Lưu-niên cung nào
Sát, Dương, Thương, Phục, Không, Hao (1)
Hoả, Linh, Kị, Kiếp chiếu vào hạn cung (2)
Ghê thay đại-tiểu trùng phùng (3)
Đế tinh thụ hãm Không-vong đó mà (4)
Ấy là vận hạn khó qua.
Lại Tham, Sát, Phá, Trúc-la thoát nào (5)
Đế, Tướng tam hợp chiếu vào
Hoạ may khỏi chết bởi sao cát phù
Bảo cho biết trước mà lo.

---------------------
(1): Dương = Dương Nhận (Kình).
(2): Kị = Đà La (cũng có thể thay bằng Hoá Kị)
(3): Các cách như thế, cũng như Tử vi ngộ Không vong, mà hai hạn (đại hạn và tiểu hạn) trùng phùng, thì Mệnh chết.
(4) Tử vi gặp hung sát tinh (Không Kiếp Kình Đà) và Tuần Triệt.

5. Tăng bổ Thái vi phú

1. Tiền hậu lưỡng hung thần vi lưỡng lân, gia hội thượng khả xanh trì, đồng thất dữ mưu tối nan đề phòng.
2. Phiến hỏa phần Thiên mã. Trọng dương trục Lộc tồn.

3. Kiếp Không thân thích vô thường. Quyền Lộc hành tàng mỹ định.

4. Quân tử tại Khôi Việt, tiểu nhân tại Dương Linh.

5. Hung bất giai hung, cát vô thuần cát.

6. Chủ cường Tân nhược khả bảo vô ngu, chủ nhược Tân cường hung nguy lập kiến.

7. Chủ Tân đắc thất lưỡng tương nghi, vận hạn Mệnh Thân đương hỗ kiến.

8. Thân Mệnh tối hiềm Dương Đà Thất sát, ngộ chi Mùi miễn vi hung.

9. Nhị hạn thậm Kỵ Tham Phá Cự Liêm, phùng chi định nhiên tác họa.

10. Mệnh vận Khôi Xương thường đắc quý, hạn phùng Tử Phủ định tài đa.

11. Phàm quan nữ nhân chi Mệnh, tiên quan Phu Tử nhị cung.

12. Nhược trị Sát tinh định tam giá nhi tâm bất túc, hoặc phùng Dương bột tuy đề khốc nhi lệ bất kiền.

13. Nhược quan nam Mệnh thủy dĩ Phúc Tài vi chủ, tái thẩm Thiên di hà như.

14. Nhị hạn tương nhân, cát hung đồng đoạn.

15. Hạn phùng Cát diệu bình sinh động dụng hòa hài, Mệnh tọa hung hương nhất thế cầu mưu trở ngữ.

16. Liêm Lộc lâm thân, nữ đắc thuần âm trinh khiết chi đức. Đồng Lương thủ Mệnh, nam đắc Dương, thuần trung chính chi tâm.

17. Quân tử Mệnh trung diệc hữu Dương Đà Hỏa Linh. Tiểu nhân Mệnh nội khởi vô Khoa Lộc Quyền tinh.

18. Yếu khán đắc viên thất viên, chuyên luận nhập miếu thất miếu.

19. Nhược luận tiểu nhi, tường thôi đồng hạn.

20. Tiểu nhi Mệnh tọa hung hương, nhị ngũ tuế tất nhiên yểu chiết, Canh hữu hạn phùng ác sát, ngũ thất tuế tất chủ tai vong.

21. Văn xương Văn khúc Thiên khôi tú, bất độc thi thư dã khả nhân.

22. Đa học thiểu thành chích vi Kình dương phùng Kiếp Sát. Vi nhân hảo tụng cái nhân Thái tuế ngộ Quan phù.

23. Mệnh chi lý vi thục sát tinh thần chi biến hóa, số chi lý viễn tế tường cách cục chi hưng suy.

24. Bắc Cực gia hung sát vi đạo vi tăng. Dương Đà ngộ ác tinh vi nô vi bộc.

25. Như Vũ Phá Liêm Tham cố thâm mưu nhi quý hiển, gia Dương Đà Không Kiếp phản tiểu chí dĩ cô hàn.

26. Hạn phụ tinh vượng hạn tuy nhược nhi bất nhược. Mệnh lâm cát địa Mệnh tuy hung nhi bất hung.

27. Đoạn kiều Triệt lộ đại tiểu nan hành, Mão Dậu nhị Không thông minh phát phúc.

28. Mệnh Thân ngộ Tử Phủ điệp tích kim ngân, nhị chủ phùng Kiếp Không y thực bất túc.

29. Mưu nhi bất toại, Mệnh hạn ngộ nhập Kình dương. Đông tác Tây thành, hạn thân tao phùng phụ tướng

30. Khoa Quyền Lộc củng, định vi ban quế chi cao nhân. Không Kiếp Dương Linh, tác cửu lưu chi thuật sĩ.

31. Tình hoài sướng thư Xương Khúc Mệnh Thân, quỷ trá phù hư Dương Đà hãm địa.

32. Thiên cơ Thiên lương Kình dương hội, tảo hữu hình nhi vãn kiến cô.

33. Tham lang Vũ khúc Liêm trinh phùng, thiểu thụ bần nhi hậu hưởng phúc.

Thử giai đấu sổ chi áo diệu, học giả nghi thục tư chi.

________________

Thứ Hai, 5 tháng 7, 2010

Luận Tử Vi

Các bạn muốn xem tử vi xin hãy post ngày sinh giờ sinh vào trong comment của trang này. Mảng này tôi kém lắm xem không chuẩn cũng đừng trách nha

Xét nghiệm HIV và các giá trị xét nghiệm

Xét nghiệm HIV là rất cần thiết và ý nghĩa của nó rất quan trọng đối với mỗi người

Hiện nay, xét nghiệm máu là cách duy nhất để biết được một người có bị nhiễm HIV hay không.

Xét nghiệm HIV (test HIV) là đi tìm kháng thể kháng virus HIV. Các kháng thể này là một loại protein được cơ thể sản sinh ra để chống lại virus HIV sau khi virus này xâm nhập vào cơ thể.

Xác định tình trạng nhiễm HIV

Một số điều các bạn cần quan tâm về xác định tình trạng nhiễm HIV

Xét nghiệm xác định HIV

Xét nghiệm Elisa: Là một xét nghiệm nhằm xác định kháng thể kháng HIV có trong huyết thanh của người nhiễm. Xét nghiệm này được trình bày theo cơ chế sau:

Kháng nguyên HIV được phủ lên trên những hạt nhựa gắn Elisa

Huyết thanh người có chứa kháng thể (kháng thể thứ nhất). Nếu người nhiễm HIV thì huyết thanh sẽ có kháng thể kháng HIV và kháng thể này sẽ gắn với kháng nguyên HIV đã được gắn trên hạt nhựa

Kháng immunoglobulin (kháng thể kháng kháng thể người – kháng thể thứ hai) có chứa enzym. Đây là kháng thể thứ hai và nó sẽ gắn với kháng thể kháng HIV nếu kháng thể này hiện diện.

Chỉ thị màu nếu enzym của (kháng thể thứ hai) hoạt động (gắn vào kháng thể thứ nhất) sẽ làm chuyển màu

Kết quả: ELISA dương tính

Có sự gắn kết của kháng thể thứ nhất với kháng nguyên và kháng thể thứ hai với kháng thể thứ nhất


Elisa âm tính

Không có sự gắn kết giữa kháng nguyên và kháng thể

Xét nghiệm Western blot

Xác định kháng nguyên đặc trưng của virus HIV (đặc thù theo từng cộng đồng theo châu lục)

Các test nhanh

Hiện nay có khá nhiều test nhanh để chẩn đoán nhanh về tình trạng nhiễm HIV (Tùy theo từng đơn vị nhập mà các test nhanh này có thể khác nhau).

Giá trị của xét nghiệm chẩn đoán dương tính của các test này đạt khoảng 99,5%.

Thứ Bảy, 3 tháng 7, 2010

Vốn giá rẻ: không hiếm nhưng khó vay

Phần tóm tắt hay đầu bài đăngPhần còn lại.
Nhiều ngân hàng đang mời doanh nghiệp tham gia các chương trình vay vốn giá rẻ, nhưng đi kèm là vô số điều kiện không dễ tiếp cận.

TIN LIÊN QUAN

* Ngân hàng Nhà nước thừa nhận khó hạ lãi suất
* Bảo vệ người gửi tiền-bảo vệ nền tảng tài chính ngân hàng
* Giảm lãi suất phải từ ngân hàng nhỏ

Ngân hàng mời vay

Ngân hàng Nhà Hà Nội (Habubank) vừa quyết định giảm lãi suất cho vay đối với doanh nghiệp (DN) nhưng đi kèm là các là các điều kiện về điểm xếp hạng tín dụng.

Theo đó, Habubank sẽ xem xét cho các DN xuất khẩu vay bằng ngoại tệ nếu có nguồn trả với lãi suất giảm từ 1,5%/năm. Bên cạnh đó, doanh nghiệp xuất khẩu vay bằng ngoại tệ nếu vay tại Habubank có thể được hưởng mức lãi suất ưu đãi tối thiểu là 5%/năm đối với USD và 13%/năm đối với VND.

Mô tả ảnh.
Nhiều chương trình vốn giá rẻ được tung ra mời DN. (Ảnh: VNN)

Trong khi đó, từ 15/6, Maritime Bank đã giảm lãi suất cho vay bằng VND từ 0,5 - 1%/năm đối với các khoản vay ngắn hạn và giảm đến 1%/năm đối với các khoản vay trung, dài hạn. Các DN vay vốn có phương án kinh doanh hiệu quả được hưởng mức lãi suất ưu đãi quanh mức 14%/năm.

Không chỉ các ngân hàng trong nước, mới đây HSBC Việt Nam cũng hạ lãi suất cho vay tiền đồng xuống còn 12 - 13%/năm.

Trong thông báo mới đây của Ngân hàng Nhà nước cho biết, trên thị trường đã có một số ngân hàng điều chỉnh giảm lãi suất cho vay. Cụ thể, các ngân hàng Tiên Phong, Quân Đội, Á Châu… điều chỉnh giảm lãi suất cho vay từ 1-2%/năm đối với các khách hàng là DN xuất khẩu, DN nhỏ và vừa...

Không chỉ ưu đãi, các chương trình cho vay này được các ngân hàng tiếp thị đến từng DN cụ thể. Thậm chí, khi lên chương trình cho vay ưu đãi, các ngân hàng còn có sẵn DN khách hàng có đủ điều kiện trong dữ liệu sẵn có của mình để tìm cách cho vay.

Theo một chuyên gia ngân hàng, trong tình hình khó khăn về nguồn, nhưng các ngân hàng vẫn buộc phải kinh doanh để có lãi nên đã bằng nhiều cách đưa ra các chương trình để thu hút khách vay.

Khó ở điều kiện

Trên thị trường hiện nay có rất nhiều chương trình được coi là vốn ưu đãi cho DN được các ngân hàng áp dụng. So với mặt bằng lãi suất chung, lãi suất trên là khá rẻ cho DN. Tuy nhiên, liệu có dễ tiếp cận, khi mà các ngân hàng luôn đi kèm nhiều điều kiện. Điều này khiến cho vốn giá rẻ không ít, nhưng thực sự khó vay.

Để tiếp cận được vốn của Habubank, DN phải cung cấp đầy đủ thông tin để xếp hạng. Khách hàng được xếp theo các nhóm từ A đến AAA, từ B đến BBB… tương ứng mỗi nhóm sẽ được hưởng mức lãi suất giảm khác nhau. Việc xếp hạng này do chính Habubank chấm điểm.

Trong khi đó, ở HDBank, chương trình đi kèm các điều kiện kiểm soát khá kỹ về điều kiện tín dụng, sử dụng các dịch vụ đi kèm hay các cam kết huy động lại vốn từ DN khi có tiền nhàn rỗi.

Cụ thể, DN sẽ cung cấp các thông tin, sau đó dựa vào các tiêu chí đánh giá, HDBank sẽ cấp hạn mức tín dụng theo nhu cầu đối với từng doanh nghiệp, thời hạn vay phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhanh chóng.

Mô tả ảnh.
ĐI kèm vốn rẻ là nhiều điều kiện khó khăn. (Ảnh: VNN)

Tuy nhiên, theo các DN, không phải đơn vị nào cũng đạt được các yêu cầu này. Nếu đáp ứng được, thì đa số là DN lớn và đều đã là khách hàng thân thiết với ngân hàng, nên chuyện vay vốn chưa hẳn đã khó khăn.

Đại diện một DN nói, nếu đáp ứng đầy đủ các tiêu chí này, thì bản thân DN cũng đã có thể thỏa thuận vốn với ngân hàng mà không cần tới những chương trình ưu đãi. Những điều kiện này xem ra chỉ có lợi cho những DN lớn, DN có quan hệ tài chính tốt với ngân hàng.

Thực tế, một chuyên viên của ngân hàng HSBC đã cho biết, sau khi công bố giảm lãi suất cho vay, rất nhiều DN đã đến hỏi với kỳ vọng được vay vốn giá rẻ, nhưng không được như kỳ vọng vì không đáp ứng được các điều kiện của ngân hàng đưa ra.

Thay đổi cách làm?

Theo ông Cao Sĩ Kiêm, Chủ tịch Hiệp hội DN nhỏ và vừa Việt Nam, hiện đa số DN vẫn rơi vào tình trạng rất khó vay vốn để đáp ứng nhu cầu sản xuất - kinh doanh. DN nào vay được vốn thì phải chịu lãi suất cao, vượt quá khả năng chịu đựng của họ.

Trong khi khối này có tới hơn 400.000 đơn vị, chiếm 95% tổng số DN. Ngoài các nguyên nhân cố hữu như thiếu tài sản thế chấp, chưa minh bạch về tài chính, vốn tự có thấp… Thêm vào đó, các sản phẩm, nhất là thủ tục vay vốn của ngân hàng chưa được thiết kế phù hợp với đặc thù hoạt động của DN nhỏ và vừa.

Vì thế, ông Kiêm cho rằng, ngân hàng cũng cần có sự thay đổi. Các ngân hàng không chỉ dựa trên tài sản thế chấp khi cho vay, mà nên mở rộng hạn mức cho vay tín chấp khi DN có kết quả kinh doanh tốt, có uy tín trong thanh toán vốn vay.

Ông.Võ Trí Thành - Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu và Quản lý kinh tế Trung ương - chia sẻ, bản thân ngân hàng cũng cần nỗ lực đưa ra các sản phẩm mới phù hợp hơn cho DN nhỏ và vừa. Đặc biệt, cần xem xét cho DN vay dựa trên cơ sở dòng tiền, phương án sản xuất - kinh doanh của họ, chứ không nên cứng nhắc dựa trên tài sản thế chấp, quy mô vốn của DN.

Nếu DN xuất trình được hợp đồng bán hàng cho các đối tác có uy tín, có thương hiệu lớn, khách hàng có khả năng thanh toán tốt, thì các ngân hàng nên căn cứ vào đó để linh hoạt cho vay với hạn mức hợp lý.

*
Phước Minh

State and local gov't workers' job security fades

In this June 30, 2010 photo, Daryl Seaman stands outside the Madison County juvenile detention where he works in Edwardsville, Ill. For every worker who's been laid off, many others worry that they're next. The sense of long-term security that once attached itself to a state or local government job is gone. One of them is Daryl Seaman, who was so confident in his job security just a year ago that he built a new home for his family. As a probation officer for Madison County, Ill., he didn't think his job would ever be in jeopardy. (AP Photo/Jeff Roberson)
Christopher Leonard and Christopher S. Rugaber, AP Business Writers, On Saturday July 3, 2010, 12:25 pm

For years, most people who worked for state or local governments accepted a fact of life: Their pay wasn't great. The job security was.

Now that's gone, too.

States and municipalities are facing gaping budget gaps. Many have responded by slashing services, raising taxes and, for the first time in decades, making deep job cuts.

And public employees should brace themselves: Some economists say the job cuts could worsen in the second half of the year.

Those government layoffs make it harder to reduce the national unemployment rate, now 9.5 percent. The rate did fall slightly in June because more than a half-million out-of-work Americans gave up their job searches. Once people stop seeking work, they're no longer counted as unemployed.

The economy is already under pressure from weak consumer spending, sinking stock prices, a European debt crisis and a teetering real estate market.

"It's certainly a drag on economic growth in our outlook," Mark Vitner, an economist at Wells Fargo, said of the loss of public-sector jobs.

It's also a burden for residents. As state and municipal employees are cut, so are services. It takes longer to register a car, see a school nurse or travel to work by bus.

In California, state-run Department of Motor Vehicle offices have been closed on selected furlough Fridays to cut costs.

In New York City, a new budget will close up to 30 senior centers, shutter a 24-hour homeless center in Manhattan and eliminate nurses at schools with fewer than 300 students.

In Atlanta, the metro transit agency shut 40 bus lines and closed restrooms in June. Even so, 300 employees might lose their jobs to close a $69 million budget gap.

Julie Bussgang used to have assistants to help her keep order in her kindergarten classroom in Albany, Calif. Last year, those assistants were cut. Bussgang was left on her own.

"I've had kids calling for help from the bathroom, and I was alone with 24 kids," she says. "We got through far less of the curriculum than we did in the previous year. Everything took longer."

State and local governments cut 95,000 jobs in the first half of the year even as the economy slowly recovered. Private employers, by contrast, added 593,000 jobs in that time. It's the first time the public sector has cut jobs while the private sector has added jobs since 1981, said Marisa Di Natale, a director at Moody's Economy.com.

In the second half of the year, 152,000 more local and state government employees will be laid off, estimates Nigel Gault, an economist at IHS Global Insight.

Counting companies that work with state governments, a total of 900,000 jobs could be lost to states' budget shortfalls, according to the Center on Budget and Policy Priorities, a think tank in Washington.

From teachers and probation officers to recreation workers and transportation specialists, public employees who never imagined their jobs could be in jeopardy are discovering they are.

They are people like 24-year-old Brianna Clegg, who had never hesitated to take on school loans in pursuit of her teaching certificate.

"I was always hearing, 'There's a huge need for teachers.'"

Yet as California's budget crisis mounted last year, thousands of teaching jobs were slashed. One was Clegg's job teaching fourth grade in Stockton, Calif.

When she sought another position, she made a grim discovery: In a state in which roughly 26,000 teachers have been laid off, openings existed for 39 teachers. Clegg wasn't among the fortunate few.

Across the country, the trouble stems from shrinking state income and sales tax revenue, a consequence of the recession. Total state revenue dropped 11 percent from fiscal year 2008, when the recession began, to fiscal 2010, according to the National Association of State Budget Officers.

Compounding the problem, Democrats in Congress have failed to come up with the votes to spend about $50 billion to help states pay for Medicaid programs and avoid teacher layoffs. Governors made a plea for the money to help them avoid layoffs. Kansas Gov. Mark Parkinson said his state might have to lay off 3,600 teachers.

Senate Republicans have argued that the nation can't afford further spending in light of record-high budget deficits.

Until recently, state governments had been able to paper over some of their funding shortfalls with money from last year's $787 billion federal stimulus package. Now that's drying up. As a new fiscal year begins this month in most states, they're struggling to balance their budgets, as required by every state but Vermont.

So they're cutting services and laying off employees.

"We do expect more layoffs to come," Vitner said. "State and local governments are having to make the cuts they didn't have to make a year ago."

Hardest hit have been states -- like California, Arizona and Nevada -- whose housing markets had overheated and then deflated, said Brian Sigritz of the National Association of State Budget Officers. But budget crises have spread nearly everywhere. About 46 states face total budget gaps of at least $112 billion this year, the Center on Budget and Policy Priorities says.

At least 26 states have cut jobs this year to try to close budget deficits. Five others have imposed temporary layoffs. Their tight budgets have led many states to shift more spending burdens to localities, adding to budget problems in many cities.

For every worker who's been laid off, many others worry that they're next. The sense of long-term security that once attached itself to a state or local government job is gone.

One of them is Daryl Seaman, who was so confident in his job security just a year ago that he built a new home for his family. As a probation officer for Madison County, Ill., he didn't think his job would ever be in jeopardy.

Twelve months later, Seaman has been demoted because of county budget cuts. He finds himself obsessing with co-workers over the next round of layoffs that could claim their jobs.

"Everybody is panicking," Seaman says.

Seaman's wife teaches in a district that has laid off some teachers with less seniority. With two teenage daughters to support, they're saving everything they can.

"We're just afraid to spend any money," Seaman says.

Rugaber reported from Washington, Leonard from St. Louis.

Chào 2 khách đầu tiên

to QueChi
[img]http://www.lyso.vn/dichvu/lasotutru/0/053018051985/1/que chi.jpg[/img]
tứ trụ của bạn: thân không được lệnh nhưng kiếp nhiều làm cho thân mạnh.
về gia thế có tốt, song có vẻ như ngày càng xa xút, ông bà trước đây có làm phúc nhiều, tiền tài có, song đến lượt cha mẹ và anh em lại kém dần, anh em bạn cũng không được tốt cho lắm, hay mắc nạn khi ra ngoài. cá nhân bạn hay chồng bạn là người có lòng mộ đạo, bạn rất thông minh, nhưng chuyện chồng con sau này có nhiều trắc trở, nhất là phía nhà chồng.
về vận tứ trụ bạn tỷ kiếp nhiều nên khi hành vận tỷ kiếp cha rất dễ bị nạn, mình đoán có thể trong khoảng từ năm 4-9 tuổi, 1992-1996.
hai vận kiêu ấn: 14-33 có lợi cho việc học hành của bạn cũng rễ dành được bằng cấp trong học tập, vận tốt của bạn là hai vận quan sát, nói chung từ 34 trở đi mới tốt được, trong khoảng 47-48 tuổi bạn sẽ gặp trục trặc với cấp trên của mình, có giáng chức, hay thay đổi công việc. năm canh dần 2010, lưu niên trùng đại vận bạn hãy cẩn thận với việc làm của mình, theo tử bình thì đây là năm hạn nặng của bạn đó. tam dần hình tỵ . anh em hay cha cũng dễ bị vạ lây khá khó khăn đó . chúc bạn sớm vượt qua

Nguồn Gốc Môn Tứ Trụ Tử Bình

Phương pháp này tương tự như tử vi, nhưng phức tạp, uyên áo, khó nắm vững hơn, vì thế ít người biết. Nó còn có thể giúp ta tìm giải pháp cho các mệnh có vấn đề. Nói chung, ta có thể:

  • Vạch ra cuộc đời của một người, từ lúc còn bé thơ, thanh niên, trung niên, đến già, chết
  • Mô tả tính tình, tướng mạo, sự nghiệp, nghề nghiệp, điạ vị xã hội, học hành, tiền bạc , giàu sang nghèo hèn, cát hung, thọ yểu , hôn nhân, tình duyên, bệnh tật, tai nạn , rủi ro, tử vong, lao tù , v..v..
  • Nêu rõ những việc liên quan đến các người thân của y : tổ nghiệp (âm đức tổ tiên), ông bà , cha mẹ, anh chị em, vợ/chồng, con cái;

Lịch sử :

Phương pháp này do LẠC Lộc sáng tạo từ đi nhà Ðường (618-907) bên Trung hoa. Nhưng theo một tài liệu khác thì ông ta sống ở đời nhà Hán (cách nay trên 2000 năm). Có thể đúng, vì học thuyết ngũ hành xuất hiện vào thời kỳ này ở Trung Hoa, và toàn bộ khoa Tứ Trụ đều xây dựng trên ngũ hành.

Ông dùng Can, Chi của năm, tháng, ngày, giờ sinh, chuyển qua ngũ hành, rồi theo sinh khắc chế hoá để tiên đoán vận mệnh cho rất nhiều người, tất cả đều chuẩn xác, nên đương thời coi ông như Thần, gọi ông là Lạc Lộc Tử.

Trọng tâm lý luận của Lạc Lộc là Trụ Năm, nó là chúa tể của 4 mùa, 12 tháng (nguyệt / mặt trăng), 360 ngày (nhật / mặt trời).

Phương pháp này sau đó được LÝ hư Trung , nhà thông thái của Hoàng gia nhà Ðường, thâm cưú, bổ túc thêm, nhưng vẫn còn dươí dạng các bài phú .

Ðến đời Ngũ đại (907-960), nó được TỪ Cư Dịch, tự là Tử Bình viết thành sách một cách có hệ thống, dùng mãi đến nay, nên đời sau gọi là phương pháp Tử Bình, để tưởng nhớ đến công lao cuả ông .

Trọng tâm lý luận của Tử Bình là Trụ Ngày, nó là nhật / mặt trời, chi phối toàn bộ vận mệnh của một người. Do đó nó được coi là THÂN, hay MỆNH CHỦ.

Qua đời nhà Tống (960-1279), hoà thượng Từ Ðạo Hồng đã quảng bá khoa này rộng rãi ở Giang Nam. Rất nhiều người nắm vững khoa này, và lưu truyền đến ngày nay. Nó dần dần đã vượt biên giới Trung quốc, lan truyền qua Ðài loan, Việt nam, Ðông Nam Á.

Ðến đời nhà Minh (1368-1644), có Vạn Dục Dân, tiến sĩ, nhà thông thái, đã viết một tác phẩm lớn, tổng hợp toàn bộ các kiến thức về xem mệnh được biết cho đến thời đó, trọng tâm vẫn là khoa Tử Bình.

Khoa này không dùng Bát Quái và Kinh Dịch, ngoại trừ khái niệm Âm/Dương. Ngược lại, nó tập trung vào tứ trụ. Mỗi trụ được tượng trưng bởi 1 trong 10 Can ( Giáp, Ất,...,Nhâm, Quý , ứng với Trời), và 1 trong 12 Chi (Tý, Sửu, Dần,...,Tuất, Hợi, ứng với Ðất). 4 trụ Can,Chi là 8 chữ, nên còn gọi là khoa Bát Tự.

Khoa này cũng dùng cát cát thần và hung sát tương tự trong Tử vi và Bốc phệ để giải đoán vận mệnh. Nhưng bọn thuật sĩ đã tạo ra quá nhiều thần sát để hù dọa những người mê tín đặng thủ lợi, đến nỗi người đời sau không biết đâu mà mò. Chúng ta chỉ cần khoảng 15 thần sát thường dùng là đủ. Cốt tuỷ vẫn phải là ngũ hành sinh khắc chế hoá. Thần sát chỉ nên được dùng để bổ túc cho các kết luận khi dự đoán.

Nguyên lý :

Theo phương pháp này, đời ngươì được chia thành các vận 10 năm, rôì trong vận lại chia thành từng năm (còn gọi là lưu niên hay thái tuế), do đó ta không phải chỉ có 4 mà là 6 trụ để luận giải . Có khi lại còn chia năm ra từng tháng, tuy xuống tới tháng thì ít khi dùng đến, nhưng cũng cùng một nguyên lý ngũ hành; nó được dùng trong trường hợp người xin đoán cần lấy những quyết định quan trọng trong một năm nào đó.

Phương pháp này lý giải Mệnh Vận theo :

- Âm dương
- Ngũ hành sinh khắc chế hoá
- Và khả năng thiên phú nắm bắt được các thông tin khi dự đoán (paranormales) của người đoán...

Tứ trụ tử bình

hehe...
lập hẳn blog coi cho đã, bà con nào có nhu cầu coi tử vi, tử bình làm thì pots lá số vô đây, lưu ý là lá số phải của chính đương số, nêu chút giới thiệu về bản thân, là cách tốt nhất để kiểm nghiệm và cho lời giải chính xác nhất.